* OECD cảnh báo cuộc khủng hoảng tị nạn mới do hậu quả của dịch
Theo trang thống kê worldometers.info, tính đến 8 giờ ngày 26/10 (giờ Việt Nam), toàn thế giới đã ghi nhận 43.323.390 ca nhiễm virus SARS-CoV-2 gây đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19, trong đó có 1.158.807 ca tử vong. Số trường hợp được điều trị khỏi bệnh là 31.897.086 người.
Quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của dịch COVID-19 vẫn là Mỹ với 230.510 trường hợp tử vong trong tổng số 8.889.179 ca nhiễm. Tiếp đó là Ấn Độ với 119.030 ca tử vong trên 7.909.049 ca bệnh. Brazil đứng thứ ba với 157.163 ca tử vong trong số 5.394.128 bệnh nhân.
Xét theo khu vực, Mỹ Latin và Caribe là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, với 390.870 ca tử vong trong tổng số 10.897.051 ca nhiễm; tiếp đó là châu Âu 261.395 ca tử vong trên 8.685.099 ca mắc bệnh.
Châu Á có 165.627 ca tử vong trong số 10.153.519 ca mắc COVID-19; Trung Đông có hơn 56.245 ca tử vong; châu Phi có hơn 41.100 ca tử vong, và số ca tử vong do COVID-19 tại châu Đại dương là hơn 1.000 người.
Xét trên tỉ lệ dân số, Peru là quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, theo đó cứ 100.000 người dân có 103 người không qua khỏi đại dịch này. Tiếp đến là Bỉ (với tỉ lệ 93 người).
Tại châu Mỹ, hai tỉnh đông dân nhất Canada là Ontario và Quebec đã phải chứng kiến những dấu mốc không mong muốn trong ngày 25/10: số ca mắc mới COVID-19 trong ngày tại Ontario lần đầu tiên vượt ngưỡng 1.000 người, trong khi tổng số ca mắc tại Quebec vượt 100.000 người.
Trong vòng 24 giờ Ontario đã ghi nhận thêm 1.042 ca mắc mới, vượt con số kỷ lục 978 ca ghi nhận hôm 24/10. Trong khi đó, với 879 ca mắc mới, số người mắc COVID-19 ở Quebec đã lên tới 100.114 người.
Kể từ khi ca mắc COVID-19 đầu tiên ở Canada được thông báo hồi tháng 3/2020, quốc gia Bắc Mỹ này hiện đã ghi nhận trên 213.000 ca mắc, trong đó gần 10.000 ca tử vong. Đáng lo ngại, số ca mắc COVID-19 với triệu chứng nặng ở nước này có xu hướng gia tăng. Trong thời gian từ ngày 16-22/10, trung bình mỗi ngày có 1.010 người phải điều trị tại bệnh viện, và 209 người trong số này phải nằm ở khu điều trị tích cực.
Tại tâm dịch của châu Á, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (ngân hàng trung ương Ấn Độ - RBI) Shaktikanta Das xác nhận ông đã có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2. Trước ông Das, nhiều chính trị gia hàng đầu của Ấn Độ, trong đó có Bộ trưởng Nội vụ Amit Shah đã mắc COVID-19 và đã bình phục.
Tại Đông Nam Á, Quốc vương Malaysia Abdullah đã bác yêu cầu của Thủ tướng Muhyiddin Yassin về tuyên bố lệnh tình trạng khẩn cấp nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng COVID-19 bởi theo ông hiện nay chưa cần thiết tuyên bố lệnh này.
Tuyên bố của Hoàng gia Malaysia nêu rõ Quốc vương Abdullah tin tưởng khả năng của chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng sẽ tiếp tục thực hiện các chính sách và những nỗ lực kiềm chế sự lây lan của đại dịch COVID-19.
Tại châu Âu, ngày 25/10, Thủ tướng Bulgaria Boiko Borisov đã trở thành lãnh đạo chính trị mới nhất có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2. Trên tài khoản Facebook cá nhân, Thủ tướng Borisov xác nhận: "Sau 2 lần xét nghiệm PCR, tôi có kết quả dương tính với COVID-19". Bên cạnh đó, ông còn cho hay ông có những triệu chứng nhẹ và sẽ tự cách ly tại nhà.
Như vậy, chỉ trong 2 ngày, đã có 2 nhà lãnh đạo ở châu Âu được xác định mắc COVID-19. Trước đó, ngày 24/10, Tổng thống Ba Lan Andrzej Duda cũng đã có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2.
Châu Âu đang đối phó với làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai, với số ca mắc mới mỗi ngày ở nhiều quốc gia tăng mạnh. Riêng Bulgaria, số ca tử vong do COVID-19 ở nước này đã vượt 1.000 và số ca mắc là trên 37.000.
Ngày 25/10, Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sanchez đã tuyên bố lệnh tình trạng khẩn cấp quốc gia nhằm cắt đứt làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai. Lệnh tình trạng khẩn cấp này có hiệu lực từ tối 25/10.
Phát biểu với giới phóng viên sau cuộc họp nội các, Thủ tướng Sanchez nhấn mạnh: “Chúng ta đang ở trong tình thế nghiêm trọng nhất trong nửa thế kỷ qua”. Theo lệnh tình trạng khẩn cấp, tất cả các vùng, trừ quần đảo Canary, sẽ áp đặt lệnh giới nghiêm từ 23 giờ đêm hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau.
Chính quyền các vùng sẽ được phép áp đặt những biện pháp hạn chế nghiêm ngặt hơn đối với hoạt động di chuyển, hoạt động của doanh nghiệp cũng như nhiều hoạt động khác. Lệnh tình trạng khẩn cấp sẽ cần được quốc hội thông qua để kéo dài trên 15 ngày.
Quyết định trên được đưa ra sau khi nhiều địa phương tại Tây Ban Nha kêu gọi chính phủ trao quyền cho họ áp đặt lệnh giới nghiêm để phòng chống dịch COVID-19. Ngày 21/10, Tây Ban Nha đã trở thành nước đầu tiên tại Liên minh châu Âu (EU) ghi nhận hơn 1 triệu ca mắc COVID-19. Hiện nước này cũng là một trong những quốc gia Tây Âu có số ca mắc cao nhất với tổng cộng ca 1.110.372 ca, trong đó có 34.752 ca không qua khỏi.
Đây là lần thứ hai trong năm nay Tây Ban Nha phải ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia để đối phó với COVID-19. Ngày 14/3, Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sanchez cũng đã phải sử dụng biện pháp này khi dịch COVID-19 bùng phát mạnh trong làn sóng lây nhiễm đầu tiên.
Số liệu do Viện Y tế công cộng (RIVM) công bố cùng ngày 25/10 cho thấy số ca mắc mới COVID-19 tại Hà Lan tăng lên mức cao nhất từ trước đến nay, với hơn 10.202 ca trong 24 giờ qua. Như vậy, quốc gia Tây Bắc châu Âu này đã ghi nhận tổng cộng 291.254 ca mắc, trong đó có 7.046 tử vong.
Bộ Y tế Slovakia công bố thêm 3.042 ca mắc mới trong 24 giờ qua. Đây là ngày thứ ba liên tiếp số ca mắc mới tại nước này tăng lên mức cao nhất kể từ khi dịch bùng phát. Đến nay, Slovakia có tổng cộng 43.843 ca mắc, trong đó có 159 ca tử vong.
Tại Nga, ngày 25/10, nhà chức trách xác nhận thêm 16.710 ca mắc mới COVID-19, trong đó có 4.455 ca tại thủ đô Moscow, nâng tổng số ca mắc tại nước này lên 1.513.877 ca kể từ đại dịch bùng phát. Cũng trong 24 giờ qua, Nga ghi nhận thêm 229 ca tử vong, nâng tổng số ca không qua khỏi tại đây lên 26.050 ca.
Cùng ngày, Viện Robet Koch Đức thông báo số ca mắc tại nước này tăng thêm 11.176 ca lên 429.181 ca. Trong khi đó, số ca tử vong tăng lên 10.032 ca sau khi ghi nhận thêm 29 ca mới.
Bộ Y tế Czech công bố thêm 12.472 ca mắc mới trong ngày 24/10. Đây là số ca mắc mới cao nhất vào ngày cuối tuần – thời điểm các nhân viên y tế thường tiến hành ít xét nghiệm hơn, theo đó nâng tổng số ca mắc tại CH Czech lên 250.797 ca. Số ca không qua khỏi tại quốc gia 10,7 triệu dân này tăng thêm 106 ca lên 2.077 ca.
Chính phủ Hungary thông báo đã ghi nhận thêm 3.149 ca mắc mới trong ngày 25/10. Đây là ngày Hungary xác nhận số ca mắc mới cao nhất từ trước đến nay và lần đầu tiên vượt 3.000 ca/ngày. Theo đó, tổng số ca mắc tại quốc gia 10 triệu dân này tăng lên 59.247 ca. Với 35 ca không qua khỏi trong ngày, tổng số ca tử vong tại Hungary là 1.425 người.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh châu Phi cho biết số ca mắc COVID-19 được xác nhận ở châu lục này đã lên tới trên 1,7 triệu ca, trong khi số ca tử vong là 41.310 ca. Quốc gia châu Phi có số ca mắc COVID-19 và số ca tử vong nhiều nhất là Nam Phi với các con số lần lượt là 715.868 và 18.968. Đứng đứng thứ 2 là Maroc. Ai Cập đứng thứ 3. Ngoài ra, Ethiopia và Nigeria cũng nằm trong số những nước có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất ở châu Phi.
Tính theo khu vực, miền nam châu Phi là khu vực có nhiều ca mắc bệnh cũng như ca tử vong nhất, đứng thứ 2 là khu vực Bắc Phi.
Trong diễn biến khác, Tổng Thư ký Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) Ángel Gurría đã kêu gọi các nước giàu hỗ trợ nhiều hơn cho các nước nghèo trong đại dịch COVID-19, đồng thời cảnh báo về một cuộc khủng hoảng người tị nạn mới do hậu quả của đại dịch.
Phát biểu trên báo Toàn cảnh Frankfurt (FAZ) của Đức số ra ngày 25/10, ông Gurría không cho rằng nền kinh tế thế giới sẽ nhanh chóng phục hồi theo hình chữ V. Với làn sóng lây nhiễm bùng phát lần thứ hai hiện nay, kinh tế toàn cầu trong năm 2020 có thể sẽ sụt giảm mạnh hơn mức dự báo 4,5% đã đưa ra trước đó. Ngoài ra, sự phục hồi kinh tế trong năm 2021 có thể yếu hơn khi đà phục hồi chưa có những tín hiệu rõ ràng.
Cũng theo ông Gurría, việc phát triển vắcxin phải đảm bảo lợi ích chung, không thể là "bí mật sở hữu riêng" và chỉ mang lại lợi ích cho một số ít quốc gia. Khi đã có vắcxin, cần phải có tiêu chí rõ ràng về cách thức tổ chức sản xuất hàng loạt. Ông nhấn mạnh rằng việc có vắcxin là chưa đủ, mà cần phải có sẵn trên toàn thế giới và mọi người đều có thể tiếp cận, nhất là những nước nghèo.
Tổng Thư ký OECD nhấn mạnh, thế giới sẽ chỉ loại bỏ được COVID-19 khi quốc gia cuối cùng quét sạch được virus SARS-CoV-2. Do vậy cần đảm bảo tất cả mọi người đều được tiếp cận vắcxin. Ngoài ra, các nước giàu cũng cần giảm nợ nhiều hơn, không chỉ cho các nước nghèo nhất, mà còn cho những nước có thu nhập trung bình. Đây cũng là lợi ích của các nước giàu, bởi nếu không sẽ có nguy cơ bùng nổ số người di cư trên thế giới.
Theo ông, COVID-19 có nguy cơ tạo nên một cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn hơn nhiều thời điểm năm năm trước. Không chỉ là những quốc gia đơn lẻ như Libya hay Syria, khủng hoảng tị nạn có thể đến từ hàng chục quốc gia ở các lục địa khác nhau.
Cuộc khủng hoảng hiện nay tồi tệ hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 và mang tính toàn cầu hơn cuộc đại suy thoái những năm 1930, bởi virus SARS-CoV-2 xuất hiện ở khắp nơi trong khi thế giới ngày nay kết nối chặt chẽ hơn nhiều so với thời điểm trước đây và điều đó sẽ khiến khủng hoảng lan nhanh hơn.
Tuy nhiên, theo ông, khác với trước đây, phản ứng chính trị của các nước đã quyết liệt hơn nhiều, đã có thể huy động tới 12.000 tỉ USD cho cuộc chiến chống COVID-19, song sẽ có hiệu quả hơn nữa nếu các nước có sự hợp tác và phối hợp quốc tế lớn hơn.
Tổng Thư ký OECD cũng cho rằng để hỗ trợ nền kinh tế, các nước cần tiếp tục sử dụng hợp lý 3 công cụ, gồm chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và thúc đẩy thay đổi cơ cấu. Ông cũng nhận định sau đại dịch, châu Âu sẽ tiếp tục phát triển và sẽ có thêm nhiều quốc gia gia nhập Liên minh châu Âu (EU), thị trường nội địa EU và Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).
Theo ông, việc châu Âu lập quỹ hỗ trợ chung trị giá 750 tỉ euro là một bước tiến mạnh mẽ cho việc hội nhập khu vực và cũng là quyết định có ý nghĩa về chính trị và kinh tế toàn cầu.
H.T (tổng hợp từ TTXVN, Báo Tin Tức)