Những bí ẩn xung quanh đền tháp Champa cho đến nay vẫn chưa có lời giải cuối cùng.
Những bí ẩn đền tháp Champa
Vì mê văn hóa Champa, tôi cùng một đồng nghiệp cưỡi “ngựa máy” hướng về miền đất Quảng. Nơi ấy có Mỹ Sơn, khu thánh địa linh thiêng của vương triều Champa cổ. Dù đã tham quan thánh địa Mỹ Sơn nhiều lần nhưng đền tháp Champa nơi đây vẫn có sức hút kỳ lạ với tôi.
Chúng tôi chạy xe máy từ nửa trưa nắng gắt đến nhá nhem tối thì đến TX Tam Kỳ của miền đất Quảng. Tá túc một ngày ở nhà người quen và thưởng thức món mỳ Quảng thơm ngon, chúng tôi lại khăn gói tìm lên Mỹ Sơn.
Trước khi đến với các đền tháp, chúng tôi đến thăm Nhà trưng bày hiện vật Mỹ Sơn được xây dựng vào năm 2005 tọa lạc khá gần khu thánh địa Mỹ Sơn. Tại nơi đây, tỉnh Quảng Nam đã cho trưng bày những hiện vật gốc của thánh địa Mỹ Sơn như bia ký, phù điêu, linga, yoni, gạch ngói… và những pa-nô giới thiệu tổng quan về lịch sử nghiên cứu đền tháp Mỹ Sơn cũng như thành quả trong công tác trùng tu.
Cũng tại nơi đây, tôi gặp được họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ, một người “mê” Chăm đến mức lạ lùng. Có lẽ sau kiến trúc sư Kazik (Ba Lan), họa sĩ này là người gắn bó với Mỹ Sơn lâu nhất, đến mức ai cũng gọi ông là “họa sĩ Chăm”. Điều này được thực chứng ngay khi chúng tôi mục kích những bức tường đền tháp Mỹ Sơn giả định vẽ chính xác đến từng chi tiết trong nhà trưng bày, là thành quả sau nhiều tháng năm lao động miệt mài bên cạnh đền tháp Mỹ Sơn của “họa sĩ Chăm” Nguyễn Thượng Hỷ.
Tạm chia tay với chàng “họa sĩ Chăm”, men theo con đường nhỏ mà người xưa từng đi, chúng tôi len lỏi qua từng tán cây rừng và dần lạc bước vào một thế giới tâm linh huyền ảo. Đập vào mắt chúng tôi là hàng chục ngôi đền tháp đỏ rực như lửa, cao hàng chục mét vươn lên giữa rừng già chằng chịt những rễ cây lộ thiên như những mạch máu sinh vật sống. Điều đặc biệt hơn nữa, qua khảo sát của chúng tôi, những bức tường của các đền tháp Champa đều không bao giờ bị rêu phong, đen sạm bởi sương gió. Chỉ có một màu đỏ và… đỏ rực như lửa.
Kim tự tháp Ai Cập dùng sức nặng hàng chục tấn của những khối đá được mài nhẵn các cạnh thành hình chữ nhật hoặc hình vuông để làm giá đỡ cho nhau nên không cần chất kết dính giữa những khối đá với nhau. Kỹ thuật mài nhẵn đá của người Ai Cập tinh vi đến mức một con dao sắc bén cũng không thể lách vào được giữa các khối đá. Và, càng lên cao thì các khối đá lại có kích thước nhỏ lại dần, trong khi những khối đá ở tầng đáy lại có kích thước lớn nhất để chịu lực toàn bộ công trình.
Có lẽ vì thế nên công trình hoàn toàn bằng đá cao đến trăm mét này mới có được sự vững chãi, chắc chắn hàng ngàn năm. Vì vậy, từ lâu người Ả rập có lời khen ngợi rằng: “Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời gian sợ kim tự tháp”. Và kim tự tháp Kheops (cao đến gần 150m) chính là một trong những công trình cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số bảy kỳ quan thế giới cổ đại.
Các đền tháp Champa có kích thước khiêm tốn hơn rất nhiều lần so với các kim tự tháp Ai Cập, lại được xây bằng gạch, thứ nguyên liệu nhỏ, nhẹ hơn rất nhiều so với nguyên liệu đá. Nếu đền tháp Champa xây bằng gạch thì phải có chất kết dính những viên gạch lại với nhau như chúng ta dùng vữa từ hỗn hợp xi măng, cát, sạn... ngày nay. Song trên thực tế, không hề phát hiện có những mạch vữa giữa các viên gạch ở các đền tháp Champa.
Vậy nếu không có chất kết dính thì làm sao người Chăm xưa có thể tạo nên một tòa tháp bằng gạch cao hàng chục mét? Đó là chưa kể những bức phù điêu gắn xung quanh thân và phần vòm đền tháp Champa đều làm bằng sa thạch. Nếu không có chất kết dính thì làm sao có thể “gắn” những bức phù điêu vào bức tường gạch? Và liệu các lớp gạch không có kết dính có thể chịu được sức nặng của vòm bằng đá sa thạch từ phần mái hay không?
Bên cạnh đó, việc xây đền tháp Champa bằng gạch được nung từ trước hay dùng gạch chưa nung? Bởi theo truyền thuyết dân gian còn truyền ở các làng Chăm tại Ninh Thuận là tháp được xây bằng gạch mộc còn ướt chưa nung. Nếu dùng gạch đã nung để xây đền tháp Champa thì liệu có thể xếp được các viên gạch thành một tòa tháp với kiến trúc rất tinh vi và phức tạp không, nếu không có chất kết dính? Nếu dùng gạch chưa nung thì làm sao để tạo ra vòm bằng sa thạch khi các trụ đứng bằng thứ đất sét yếu ớt khó có thể chống đỡ sức tan chảy của chính nó bởi ngọn lửa khổng lồ đang nung “chín” toàn bộ ngôi đền tháp? Nghĩa là xây đền tháp Champa bằng gạch chưa nung thì chắc chắn không thể tạo ra vòm sa thạch và thân tháp sẽ cực kỳ yếu và dễ sụp đổ.
Họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ, người đo vẽ từng viên gạch tháp Chăm hàng chục năm qua cho rằng: “Nung toàn khối không phải là kỹ thuật xây tháp của người Chăm xưa. Bởi gạch Chăm bình quân 6 phân, 10 viên 6 tấc, 100 viên 6m, 1.000 viên 60m. Tuy nhiên, trên thực tế nếu sắp 200 viên gạch không có kết dính thì nhất định sẽ bị sụp đổ. Trong khi đó các tháp ở Mỹ Sơn lại cao đến 24m, gấp đôi giới hạn chịu đựng của các tầng gạch”.
Điều đặc biệt hơn nữa, những bức tường gạch của các đền tháp Champa đều không bao giờ bị rêu phong, đen sạm bởi sương gió, ngoại trừ bị vỡ, bị tách biệt khỏi môi trường kiến trúc tự nhiên. Chỉ có một màu đỏ và… đỏ rực như ngọn lửa Apsara, bất chấp vương quốc sản sinh ra nó đã lụi tàn như làn sương khói. Trong khi đó, nếu sử dụng gạch hiện đại để phục chế thì chỉ một thời gian ngắn sau, “điểm phục chế” lại bị rêu phong và đen sạm. Phát biểu trong một hội thảo về Champa được tổ chức tại Đà Nẵng vào tháng 7/2012, GS.TS.KTS Hoàng Đạo Kính, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia cho rằng: “Ngay cả vấn đề giải quyết hiện tượng rêu phong cho các khối gạch xây mới, mà người Chăm xưa kia đã giải quyết được, vẫn còn là một thách đố”. Đây cũng là vấn đề mà ông Hồ Xuân Tịnh (Sở VH-TT-DL Quảng Nam) đưa ra tại hội thảo: “Một câu hỏi được đặt ra là tại sao với loại đất sét ở địa phương mà người Chăm ngày xưa đã sử dụng làm gạch xây tháp, những công trình đó đã tồn tại hàng ngàn năm, ngày nay chúng ta cũng sử dụng chính loại đất sét đó để làm gạch tu bổ tháp thì lại xảy ra hiện tượng mũn gạch hoặc muối hóa? Phải chăng có một thành phần phụ gia nào đó trong nguyên liệu làm gạch của người Chăm ngày xưa sử dụng để khử mặn trong đất sét mà hiện nay các nhà chuyên môn vẫn chưa tìm ra? Nếu đất sét nhiễm mặn thì tại sao cũng với nguyên liệu đó, khi ta dùng để sản xuất gạch theo cách bình thường của người Việt thì xây nhà vẫn tốt?”.
Những nỗ lực giải mã
Ngôi tháp Chăm cổ kính là điểm nhấn độc đáo của núi Nhạn ở Tuy Hòa - Ảnh: MINH NGUYỆT |
Kỹ thật xây dựng đền tháp Champa trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 (thế kỷ II-VI), tháp chỉ xây bằng gỗ và chỉ có tượng thờ. Giai đoạn 2, tháp xây theo cách tường gạch, mái gỗ và đã có hệ thống tượng thờ hoàn chỉnh. Tháp Phú Diên, Mỹ Khánh ở Huế thuộc giai đoạn này. Giai đoạn 3 (thế kỷ VI-XVII), tháp được xây dựng hoàn chỉnh có sự tham gia của sa thạch. Nhưng kỹ thuật xây tháp Chăm trong giai đoạn đỉnh cao như thế nào thì cho đến nay vẫn chưa được thống nhất về mặt kiến giải. Từ thời khai phá các đền tháp Champa (cuối thế kỷ XIX) cho đến nay, các học giả Ý, Pháp, Ba Lan... và các học giả của Việt Nam vẫn chưa ai đưa ra được kết luận cuối cùng.
Hiện có ba quan điểm về kỹ thuật xây dựng tháp Chăm ở giai đoạn đỉnh cao. Đầu tiên, có quan điểm cho rằng người Chăm nung gạch, dùng chất kết dính và xây lên. Quan điểm thứ hai - Leuba (1923) - cho rằng người Chăm dùng đất sét phơi khô (gạch mộc) và “nung toàn khối”. Quan điểm thứ ba lại cho rằng, người Chăm xây tháp chừng nào nung chừng nấy, rồi độn đất vào lòng tháp, như vậy vòm mới có thể xây dựng được.
Quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ bađã có từ lâu nhưng vẫn chưa xác định được khả năng. Quan điểm thứ hai thì không được thừa nhận vì những viên gạch giãn nở khác nhau trong khi nung gây ra sự đổ vỡ. Ông Nguyễn Hữu Thông, nguyên Phân viện trưởng Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, nhận định: “Nung toàn khối đúng là một truyền thống của người Chăm. Hiện nay lò gốm ở Bàu Trúc, Phan Rang, Ninh Thuận được đánh giá là lạc hậu nhất thế giới, không có bàn xoay và chất củi đốt (không dùng than) nên nhiệt độ tạo ra chỉ 300-400 độ C. Tuy nhiên, giả sử muốn “nung toàn khối” thì cũng không thể thực hiện ngoài trời được. Vì nhiệt độ chỉ đạt 500-600 độ C. Trong khi gạch tháp Chăm hoàn chỉnh đã lên tới độ nung 1.000 độ C. Và nếu nung ở lò nung thì gạch cũng không thể “chín đều” như vậy được. Vì có chỗ gạch nằm ở lỗ thông hơi, có gạch nằm ở chỗ gần củi đang cháy. Có lẽ chỉ có lò ga hiện đại mới đạt độ hoàn chỉnh đến như vậy. Một điều nữa là khi nung gạch mộc thì tạo sự đùn đẩy vì thông số co giãn mỗi viên gạch chắc chắn là không giống nhau, sẽ gây ra đổ vỡ”.
Về hiện tượng Lê Văn Chỉnh, một người thợ thủ công đã dùng kỹ thuật “mài chập” để tạo nên một mô hình tháp Chăm cao 6,7m tại nhà hàng ẩm thực Apsara (Đà Nẵng) vào năm 2003, ông Nguyễn Hữu Thông nhận định: “Đó là kỹ thuật mài nhẵn hai viên gạch để tạo ra hỗn vị cho gạch. Hỗn vị này là bột gạch, chất kết dính hai viên gạch lại với nhau. Điều này có thể kiểm chứng ở các tháp ở Indonesia. Tuy nhiên, ông Lê Văn Chỉnh chỉ làm nên một mô hình tháp Chăm, tỉ lệ nhỏ hơn rất nhiều so với tỉ lệ thực. Cho nên khả năng chịu lực từng viên gạch thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Do đó, mô hình tháp khó có thể bền vững qua hàng thế kỷ như tháp Chăm”.
Trong năm 2004, nhóm chuyên gia kỹ thuật Lerici thuộc Đại học Bách khoa Milan (Italia), TS Nguyễn Hồng Kiên, họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ và nhóm công nhân trong dự án tu bổ nhóm tháp G (Mỹ Sơn) đã làm thí nghiệm một khối xây nhỏ riêng biệt đặt gần tháp G1 bằng chất kết dính gồm nhớt cây bời lời và nhựa cây dầu rái (tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb thuộc họ Dipterocarpaceae). Kết quả, chất kết dính bằng nhựa thực vật là dầu rái có độ liên kết tốt hơn nhựa cây bời lời. Sau nhiều thí nghiệm và những tính toán cẩn trọng, đến ngày 1/10/2006, Trung tâm Quản lý di tích- di sản tỉnh Quảng Nam công bố thông tin: Đã nhận biết được loại vật liệu kết dính gạch Chăm là nhựa cây dầu rái. Tuy nhiên, nhận xét về phát hiện chấn động này, ông Nguyễn Hữu Thông lại cẩn trọng nhận định rằng: “Gạch xây tháp Chăm có sự hiện hữu của dầu rái. Nhưng dầu rái không phải là chất duy nhất trong gạch. Chất kết dính các viên gạch tháp Chăm là nguyên chất (dầu rái) hay là hợp chất vẫn chưa có kết luận”. Bởi sau đó 2 năm, vào năm 2008, động tác trả lại cụm tháp Khương Mỹ (Quảng Nam) của Viện Công nghệ vật liệu xây dựng vì không thể xử lý được vật liệu và phương pháp trùng tu tương đồng với nguyên bản, gần như đặt một dấu chấm hết cho công cuộc giải mã những bí ẩn đền tháp Champa, sau hơn một thế kỷ tìm kiếm.
NGUYỄN VĂN TOÀN