Thứ Hai, 14/10/2024 09:45 SA
Hình ảnh thiêng liêng người mẹ các nhà văn
Thứ Năm, 18/08/2016 13:00 CH

Đoàn nhà văn TP Hồ Chí Minh thăm mẹ nhà thơ Phan Hoàng ở Phú Yên - Ảnh: LÊ MINH

Vu lan mùa báo hiếu, nhớ thương mẹ mình, tôi lần giở lại ký ức những nhà văn viết về hình ảnh thiêng liêng người mẹ. Làm sao chúng ta nên người, làm sao trở thành nhà văn nếu ai đó bất kính đối với đấng sinh thành…

 

Tôi nhớ một nhà thơ Nga từng viết đại ý: Thế gian đẹp nhất bông hồng/ Mẹ nghèo sinh những anh hùng, thi nhân. Hình ảnh người mẹ từ xưa đã đi vào văn học nghệ thuật, đặc biệt là thế giới thi ca với những ngôn từ đẹp nhất, thành kính nhất về đấng sinh thành. Nhà thơ Vũ Đình Liên cũng từng viết: Tôi nhớ mẹ tôi xưa/ Vất vả như bà Tú/ Nuôi chồng và con nhỏ/ Quanh năm miệng vẫn cười. Bà Tú mà tác giả Ông đồ nói đến là người vợ hiền của nhà thơ tiền bối Tú Xương ở Nam Định. Còn người mẹ nghèo vất vả của nhà thơ Vũ Đình Liên thì ở Hải Dương.

 

Từ quê hương lên Hà Nội học, dạy học và làm thơ, khi lớn tuổi, “ông đồ” Vũ Đình Liên đã hối hận vì thấy mình giống như Tú Xương quá mê thơ mà có lúc lãng quên vợ, lãng quên mẹ. Nhà thơ tâm sự: “Hình tượng tôi quý nhất là mẹ tôi, kế đến là vợ tôi. Nếu không có mẹ sinh ra mình, nuôi mình khôn lớn, không có vợ chăm nom cho cái ăn cái uống, thì không ai thành nhà thơ, thành lãnh tụ...”.

 

Hình ảnh người mẹ không chỉ là ký ức thiêng liêng mà còn là nguồn cảm hứng sáng tạo thường trực cho các nhà văn. Trong những lần tôi gặp gỡ, phỏng vấn các đồng nghiệp đi trước, người mẹ bao giờ cũng được họ nói đến đầu tiên với tất cả sự kính trọng, niềm thương yêu, nỗi đau đớn và tầm ảnh hưởng đối với cuộc đời, sự nghiệp cầm bút của họ.

 

Sinh ra ở một vùng quê cơ cực nhưng giàu truyền thống văn hóa ở Hà Tĩnh, tuổi thơ nhà thơ Huy Cận “tắm mình” trong những lời bình Kiều của cha và lời ru của mẹ. Ông đặc biệt yêu thích và sớm thuộc lòng bài ví dặm câu năm chữ xen những câu lục bát Mẹ góa con côi do mẹ hát ru: Cực lòng mẹ góa con côi/ Đi thời thương tiếc phải ngồi nuôi con/ Ru duyên hời, phận hỡi/ Ru duyên hời, phận hỡi/ Ru duyên hời, phận hỡi/ Ru con ăn con nhởi/ Ru non nước tình chung… Nhà thơ Huy Cận còn cho biết: “Bố tôi rất mê văn chương, thuộc Truyện Kiều kinh khủng và hay bình Kiều. Ban đêm, ông thường nằm nhà ngoài một mình đọc Kiều sang sảng, rồi tự bình như giảng bài cho ai vậy. Hàng xóm đều lắng tai nghe. Mẹ tôi cũng nghe, dù bà rất hay giận hờn bố tôi. Và giận thì giận, nhưng bà rất nể tài ông. Cũng chính nhờ vậy, mà đến sáng mai, không khí giữa hai người bớt căng thẳng...”.

 

Chính lời ru của mẹ và lời bình Kiều của cha đã hun đúc trong Huy Cận tình yêu quê hương và thấm đẫm tinh thần thể thơ lục bát, để sau này ông có những đóng góp lớn cho nền thi ca qua thể thơ truyền thống dân tộc. Trong đó có bài thơ Mẹ ơi, đời mẹ đầy xúc động và cảm thông, chia sẻ, an ủi nỗi niềm của mẹ: Mẹ ơi, đời mẹ khổ nhiều/ Trách đời, mẹ giận bao nhiêu cho cùng/ Mà lòng yêu sống lạ lùng/ Mẹ không phút nản thương chồng, nuôi con… và để rồi: Giận thầy, mẹ chẳng nói thưa/ Vỉa câu chua chát lời thơ truyện Kiều/ Cắn răng bỏ quá trăm điều/ Thủy chung vẫn một lòng yêu đời này/ Mẹ là tạo hóa tháng ngày/ Làm ra ngày tháng sâu dày đời con.

 

Còn với nhà văn Kim Lân, do hoàn cảnh đặc biệt mà tình yêu thương đối với người mẹ càng day dứt càng lớn lao. Chính số phận nghiệt ngã của mẹ mình đã góp phần giúp tác giả Vợ nhặt dựng nên một trong những tuyệt tác của văn học Việt Nam. Ông thổ lộ với tôi rằng: “Bà cụ Tứ trong Vợ nhặt chính là hình ảnh của mẹ tôi. Mẹ tôi là vợ ba của bố tôi, lại là dân ngụ cư quê gốc ở Kiến An, Hải Phòng; làm thợ cấy phiêu bạt khắp nơi. Cho nên mẹ bị gia đình chồng hết sức coi thường. Mẹ phải hầu hạ như một vú em trong nhà. Không ai xem mẹ là vợ của bố cả! Những người con hai bà lớn của bố tôi đều gọi mẹ tôi là “chị Tam”. Hồi nhỏ, tôi cứ đinh ninh Tam là tên thật của mẹ, chứ không hề biết do mẹ tôi là bà Ba. Sau Cách mạng Tháng Tám, tôi mới biết mẹ tên là Náng (ông ngoại tôi tên Nếnh), còn dì tôi tên Mủng. Dì Mủng cũng chính là nhân vật dì Hân trong truyện Người chú dượng của tôi. Nếnh, Náng, Mủng - chỉ cái tên thôi cũng thấy cái thân phận thấp hèn, trôi nổi của dân ngụ cư lúc đó”.

 

Trò chuyện với tôi, nhà văn Kim Lân đã không cầm được nước mắt khi nhớ về thân phận của người mẹ bất hạnh ở đất Kinh Bắc. Ông còn cho biết thêm: “Truyện ngắn đầu tiên của tôi là Đứa con người vợ lẽ viết trước năm 1945 nói về nỗi cơ cực tủi hờn của mẹ con tôi. Khi truyện in ra, ông anh Cả (con bà Cả) đọc được cứ theo chất vấn hạch sách tôi mãi... Chỉ khi có cách mạng thì mẹ con tôi mới thực sự đổi đời. Mẹ tôi có hai đứa con. Em gái tôi tham gia cách mạng trước tôi, về sau có chồng là Chủ tịch tỉnh Bắc Giang. Em gái tôi trước đây cũng hầu hạ các anh chị con bà Cả như một đứa ở!”.

 

Ở phương Nam, từ rừng U Minh một mình lặn lội lên Cần Thơ học trung học, nhà văn Sơn Nam nhớ về người mẹ lam lũ từng chi tiết: “Quần áo được mẹ tôi may tay cho rẻ hơn mướn may máy. Trước khi đi học xa, mỗi năm về được có mấy tháng hè, mẹ tôi buồn buồn nhìn đứa con yêu quý là tôi, căn dặn nhiều lần… Ráng mà học cho vẻ vang dòng họ, mình là dân U Minh, ai cũng chê dốt nát, quê mùa, áo mốc, chân phèn”. Người mẹ còn nhắc nhà văn tương lai phải luôn nhớ ơn bà Cà Xúc, người phụ nữ Khmer góa chồng tốt bụng đã cho bú mớm, nhai cơm đút cho Sơn Nam ăn khi mẹ ruột bị đau nặng, không có sữa. Sau này, bà Cà Xúc tái giá nhưng vẫn luôn đến thăm, đưa Sơn Nam qua cầu khỉ đi học. “Năm đó ở chùa Khmer xứ Sóc Xoài, chùa linh lắm, bày ra lễ Chô Thơ Mo, trước bệ Phật, tại chánh điện, người ta đào một lỗ khá to, nói là trẻ con muốn điều gì thì cha mẹ bỏ xuống lỗ những món có ý nghĩa, như cây kim, sợi chỉ để con gái may vá giỏi khi lớn lên. Người giàu sang thì bỏ xuống đó vài lượng vàng, vài chiếc cà rá, kiếp sau sẽ giàu hơn kiếp này. Bữa đó má bắt chước, nhờ con Cà Xúc mua cây viết, bình đựng mực, cái tập giấy để cho con tới đó bỏ xuống, trước bàn Phật, lấy phước trong cõi đời này”.

 

Cũng trong hồi ký, nhà văn Sơn Nam còn cho biết một chi tiết rất gần gũi, cảm động của người mẹ: “Lời dặn sau cùng mà mẹ tôi nhắc đôi ba lần là nên nhường nhịn bất cứ ai. Mình yếu đuối, ốm o thì nên tránh chuyện nổi nóng, chửi thề, đánh đấm. Đi học nơi xứ lạ quê người, rủi xảy ra bề gì, không ai bênh vực”. Có lẽ nhớ lời mẹ dặn mà nhà văn Sơn Nam như tôi biết, dường như không nổi nóng hay gây chuyện với bất cứ ai, dù có những lúc ông bị xúc phạm. Và những lúc ấy, tức không chịu nổi thì mắt ông ngấn lệ, kể lại để chia sẻ với bạn bè và quá lắm thì ông chửi thề một tiếng rồi… cười. Vậy thôi! Tuy nhiên, không phải ông yêu ghét chẳng rạch ròi, thậm chí còn cực đoan, nhưng ông tế nhị không tỏ thái độ. Phong thái nhẹ nhàng của nhà văn Sơn Nam chẳng khác sự quyết liệt của nhà thơ Phùng Quán trong Lời mẹ dặn: Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu.

 

Lời căn dặn của mẹ nhà văn Sơn Nam và nhà thơ Phùng Quán làm tôi nhớ đến những lời dạy dỗ của mẹ mình khi rời quê hương Phú Yên đi học xa nhà ở Nha Trang rồi TP Hồ Chí Minh. Những người mẹ đều giống nhau ở tình yêu thương, đức hy sinh vì chồng con, sự nhẫn nại chịu đựng gian khổ và lòng bao dung vô bờ bến đối với con cái. Mẹ tôi là một phụ nữ có học, thuộc lòng nhiều truyện nôm và ca dao tục ngữ, hò khoan rất hay, giỏi tính toán làm ăn nuôi đàn con khôn lớn. Mẹ cũng hay nhắc nhở về sự nhường nhịn, lòng khoan dung và tránh xa sự tham lam, ích kỷ, hư danh. Mùa Vu lan năm nay, mẹ đã bước sang tuổi giữa bát tuần, sức khỏe yếu nhiều, bệnh tật thường xuyên, nhưng vẫn minh mẫn khuyên bảo con cháu bằng những lời ca dao tục ngữ khi cần. Sau những bươn chải mưu sinh đầy hỉ nộ ái ố, về nằm ngủ dưới chân mẹ như bậc tiền bối Kiên Giang - Hà Huy Hà ngày xưa, tôi cảm thấy ấm áp thanh thản trong tình mẫu tử giữa quê hương nhưng không khỏi chạnh lòng trước nghiệt ngã của thời gian: Ngoài vườn côn trùng mê mải reo ca/ đón chào những mầm non cựa mình vươn từ lòng đất/ tôi rón rén nép mình hơi ấm se sắt sinh thành/ nước mắt lặng lẽ cứa vào lòng đêm/ rơi theo từng tiếng thở mẹ nhọc nhằn dự báo/ trận bão đau thương lớn nhất thế gian âm ỉ tràn về/ Ước gì tôi như mầm non mới cựa mình lòng đất/ và cơ thể mẹ là ngôi vườn thanh xuân ấm áp tiếng hoang sơ.

 

PHAN HOÀNG

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek