Thứ Ba, 01/10/2024 06:37 SA
Người chỉ huy 12 chuyến tàu không số huyền thoại
Thứ Hai, 23/10/2006 12:21 CH

LTS: Ngày 23/10/2006 là kỷ niệm 45 năm mở Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đây là con đường huyền thoại với những chuyến tàu chở vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ. Ở Phú Yên, Vũng Rô là một bến tập kết của những chiếc tàu không số nhằm chi viện vũ khí cho chiến trường khu 5. Một trong những người đã gắn liền với những chiếc tàu không số ngày ấy là trung tá Hồ Đắc Thạnh. Ông cũng là một người Phú Yên. Nhân dịp này, PYO xin giới thiệu về chân dung ông và chiến công của những chiếc tàu huyền thoại.

 

Ông là một trong những gương mặt chỉ huy xuất sắc của những “con tàu ma” chở vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại 30-4-1975 lịch sử. Tàu 41 do ông chỉ huy đã được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam”. Chân dung vị trung tá này vừa được đạo diễn Trần Vịnh lấy làm nhân vật chính cho bộ phim truyền hình dài năm tập “Những người lính biển”.

 

061023-ho-dac-thanh.jpg
Trung tá Hồ Đắc Thạnh đang giới thiệu về hải trình của những chuyến tàu  không số - Ảnh: Khương Duy

 

“TẬP” LÀM LÍNH BIỂN

 

Lúc Hồ Đắc Thạnh chuẩn bị vào lớp nhất để thi primare thì Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở TX Tuy Hòa. Vậy là ông xếp bút nghiên tham gia đoàn biểu tình chống Pháp đi diễu hành khắp phố phường. Sau một thời gian làm trinh sát cho thị đội Tuy Hòa, ông vào lực lượng bộ binh chính quy và tập kết ra Bắc trên chuyến tàu cuối cùng, chuyến tàu thứ 7 xuất phát từ cảng Quy Nhơn.

 

“Tôi đặt chân lên đất Thanh Hóa ngày 19-5-1955 và được biên chế vào trung đoàn 90, sư 324 đóng tại thị trấn Còng của huyện Tĩnh Gia, làm nhiệm vụ chống cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam” – ông kể. Sau khi cùng sư đoàn hành quân về Đô Lương (Nghệ An) và xây dựng doanh trại tại đây, Hồ Đắc Thạnh được điều về trường huấn luyện hạ sĩ quan của sư đoàn để đào tạo. Ông nhớ rõ: “Giữa năm 1958, khi tôi đang học được nửa khóa đào tạo trung đội trưởng thì được Quân chủng Hải quân về tuyển chọn (sư 324 có 6 chiến sĩ được tuyển). Chúng tôi được đưa xuống Hải Phòng và theo yêu cầu của Cục Phòng thủ bờ biển (tiền thân của Bộ Tư lệnh Hải quân), anh em phải đi tuyển thêm quân về đào tạo hải quân”.

 

Tại Hải Phòng, Hồ Đắc Thạnh đã trải qua nhiều khóa huấn luyện đào tạo từ hàng hải đến phóng ngư lôi và những chiến thuật chiến đấu khác trên biển. Đầu 1960, khi Trường Sĩ quan Hải Quân được thành lập tại Quảng Yên, thuyền trưởng dự bị tàu phóng lôi Hồ Đắc Thạnh được điều về làm học viên trường này.

 

VÀO NAM BẰNG NHỮNG CHIẾC TÀU KHÔNG SỐ

 

“Tôi học tại đây chưa xong thì được Bộ Tổng Tham mưu chọn về Đoàn 759 (tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân bây giờ) cùng với 3 đồng chí khác cũng là mấy anh em miền Trung tập kết. Lúc đó không biết mình được chuyển lên “trên” để làm gì. Chỉ thấy xe chạy thẳng lên Hà Nội, chui vô nhà 83 Lý Nam Đế và chúng tôi được phục vụ theo chế độ... biệt phòng. Aên uống rất chất lượng, được phục vụ văn nghệ, chiếu phim tại chỗ... Nhưng điều “đau khổ” nhất là không được phép đi ra ngoài, không liên lạc với bất kỳ ai bằng bất kỳ hình thức nào. Nghỉ dưỡng chừng 1 tháng, chúng tôi được đưa lên xe bít bùng chở đi...” – dòng chảy hồi ức của người trung tá về hưu 70 tuổi tuôn trào.

 

061023-tau41.jpg

Tàu 41 là một tập thể trung kiên, nêu cao truyền thống anh hùng của quân đội nhân dân, bền bỉ chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, bình tĩnh dũng cảm vượt qua mọi nguy hiểm, mưu trí, táo bạo quyết giành thắng lợi, lập công xuất sắc, xây dựng đơn vị lớn mạnh về mọi mặt

 

(Lời tuyên dương của Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa khi trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Tàu 41, ngày 11-1-1973. Trong ảnh là tàu 41. Ảnh tư liệu của Hải quân Mỹ)

 

Ông Thạnh và những đồng đội của mình sau đó mới biết địa chỉ mới mà họ được đưa đến là Đồ Sơn, địa điểm mà thời đó Bộ Chính trị chọn để tổ chức các cuộc họp. Tại đó, ông mới biết rằng mình được “nghỉ dưỡng” để chuẩn bị tham gia vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam theo đường biển. Ông được bổ sung vào đội tàu 54, làm thuyền phó. Chiếc tàu đó có lượng giãn nước 100 tấn, khả năng chở từ 60-80 tấn hàng. Biên chế của tàu gồm 21 người, được trang bị 4 khẩu pháo và đầy đủ vũ khí cá nhân để phòng khi có sự biến. Những chuyến tàu chở vũ khí đó được đặt cho tên gọi trìu mến nhưng hào hùng là “tàu không số”. Trung tá Hồ Đắc Thạnh giải thích lý do đưa đến tên gọi này: “Thực tế mỗi tàu đều có số, có tên hẳn hoi. Nhưng để đảm bảo bí mật, những chiếc tàu khi rời hoặc trở về nơi xuất phát đều không treo số hiệu. Trên mỗi tàu có hàng chục số hiệu và đủ loại cờ đa quốc gia. Tùy hoàn cảnh thực tế mà chúng tôi quyết định treo cờ nào, số hiệu nào cho hợp pháp để không bị phát hiện. Ngay cả màu sơn của tàu, chỉ cần một thời gian ngắn là đã có thể thay đổi được”. Những chiếc tàu “tàng hình” đó thường thực hiện hải trình của mình như một tàu đánh cá, đi ngoài hải phận quốc tế, đến đêm mới tìm cách liên lạc để vào “bến”.

 

Tối 12-9-1963, cùng với những chiếc tàu khác, tàu 54 đã nhổ neo, khởi đầu cho những chuyến đi huyền thoại của những con tàu không số nổi tiếng theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển vào thẳng chiến trường miền Nam. Sau khi làm thuyền phó cho tàu 56 đưa vũ khí vào Bến Tre (cuối 12-1963), Hồ Đắc Thạnh trở thành thuyền trưởng tàu 41, vận chuyển tổng cộng 10 chuyến hàng vào Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau, Vũng Rô (Phú Yên), Quảng Ngãi... giai đoạn

từ 27-12-1963 cho đến tháng 2-1970.

 

VỀ VŨNG RÔ YÊU THƯƠNG

 

Đó là đầu tháng 11-1964. Sau một chuyến “hàng” thành công từ Cà Mau trở về, ông Thạnh được Sở chỉ huy quân chủng Hải quân thông báo kế hoạch đưa vũ khí vào chiến trường khu 5, nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt nhưng lại vô cùng thiếu thốn vũ khí. Địa điểm ưu tiên số 1 là Vũng Rô, vùng biển cực Nam Phú Yên, quê nhà của Hồ Đắc Thạnh, một vịnh nước sâu, kín gió nằm sát dãy đèo Cả, gần đường sắt và đường bộ. Đó là chuyến đi được dự báo là cam go, bởi địa điểm này rất dễ bị địch phát hiện do không có nơi trú ẩn an toàn, lại chỉ có một cửa ngõ ra biển Đông duy nhất là khoảng giữa Mũi Điện và Hòn Nưa, mà nếu địch dùng tàu chặn thì coi như không còn đường ra. Thêm nữa, hệ thống ra-đa Cù lao Ré và Chóp Chài gần như “quét” đầy đủ mọi ngóc ngách trên địa bàn. “Sau khi nghiên cứu kỹ hải đồ và tính toán chi tiết, Bộ Tư lệnh  quyết định chỉ đưa tàu vào lúc giữa đêm, tiến hành bốc dỡ vũ khí ngay và quay trở ra hải phận quốc tế vào lúc 3 giờ sáng” – ông Thạnh nhớ lại. Đó là phương án tối ưu, bởi nếu ở miền Nam, những rừng đước rừng tràm rạm rịt chính là nơi “rừng che bộ đội rừng vây quân thù”, đưa tàu vào vô tư nghỉ ngơi hát hò rồi vô tư ra; còn ở đây chỉ có biển và núi.

 

Tổng cộng có 118 lượt chuyến tàu không số vận chuyển 1.482 tấn vũ khí, đạn dược vào 19 bến của 9 tỉnh miền Nam là Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau.

 

Trong số đó, hơn 10 tàu bị đánh, phá, 112 chiến sĩ hy sinh

 

“Chuyến vào Vũng Rô đầu tiên khá căng thẳng. Trời đang đông mà biển rất êm, đó là điều khiến mọi người trên “tàu không số” 41 hết sức lo lắng. Với chúng tôi, biển động mới là điềm tốt. Ngày cuối cùng trong hành trình của tàu, điều lo lắng ấy thành sự thật. Đầu tiên, một máy bay P3B lượn qua lượn lại trên đầu, dù chiếc tàu chúng tôi đã treo cờ ba que (cờ ngụy) và anh em thủy thủ giả vờ làm ngư dân giơ mực khô và rượu như muốn mời “bạn” xuống nhậu. Chừng 15 phút sau, chiếc trực thăng bay thẳng vô đất liền. Nhưng không lâu sau đó, hai chiếc tàu địch bám theo. Mỗi chiếc một bên kèm tàu chúng tôi, toàn bộ thủy thủ đã được lệnh chuẩn bị chiến đấu. Chúng theo khoảng 2 giờ đồng hồ nhưng không thấy có động tĩnh gì đáng nghi ngờ nên đã lẳng lặng bỏ đi” – trung tá Thạnh kể. Đêm ấy, tàu vào Vũng Rô, bắt được liên lạc với Tỉnh ủy Phú Yên. Đặt chân lại mảnh đất quê hương, gặp lại những người bạn, người anh năm cũ, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh không cầm được nước mắt. “Tình cảm quê hương to lớn và thiêng liêng khiến tôi không muốn dời chân. Lúc đó, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Trần Suyền cũng ràn rụa nước mắt, phần vì xúc động, phần vì lo không biết làm thế nào để đưa hết số vũ khí 80 tấn (vì Phú Yên chỉ “xin” có 30 tấn). Mệnh lệnh là không được để tàu ở lại bởi trời sáng là rất nguy hiểm, nếu hàng chưa dỡ xong, chỉ có cách là chạy ngược ra hải phận quốc tế, sau đó đợi tối mới quay vô lại. Nhưng sau khi bàn bạc, tôi quyết định cho ngụy trang tàu để hôm sau dỡ hàng tiếp”. Để có thể ngụy trang tốt con tàu, thuyền trưởng Thạnh cùng các thủy thủ của mình đã nghĩ ra cách dùng một tấm lưới khổng lồ, phủ từ núi ra hết thân tàu, ngụy trang bằng lá xanh để từ xa người ta chỉ có thể nhận thấy đấy là một mũi vươn dài của núi.

 

Sau chuyến về quê “đột phá khẩu” đó, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh cùng tàu 41 và thủy thủ đoàn còn vào Vũng Rô 2 lần nữa, vào cuối 1964, đầu 1965. “Kỷ niệm chuyến vào Vũng Rô thứ hai của tàu chúng tôi là ngoài vũ khí còn có 3 tấn gạo tám thơm từ miền Bắc chở vào. Tại sao Phú Yên là vựa lúa của miền Trung mà phải “tiếp viện” gạo từ miền Bắc? Trong lần cập bến thứ nhất, tôi thấy nhiều du kích, dân công phải ăn quả sung để cầm hơi bởi gạo lúa Tuy Hòa thì nhiều nhưng địch bít mọi đường tiếp tế rồi, thành ra... Còn chuyến đi thứ ba thì chúng tôi được lệnh vào đúng giao thừa sang năm 1965. Trong suốt đời làm lính tàu không số, đó là lần duy nhất tôi và anh em được ăn Tết trên đất liền quê nhà! Chuyến đi đó, chúng tôi chở theo trong hầm vũ khí 30 chiếc bánh chưng, 10 gói kẹo, 5 gói chè, 20 gói thuốc lá, 40 chai bia và một cành đào Nhật Tân. Tất cả đều không có nhãn hiệu như là con tàu của chúng tôi” – trung tá Thạnh như đang quay về thời 40 năm trước.

 

Chuyến tàu thứ 4 vào Vũng Rô không phải là tàu 41 của Hồ Đắc Thạnh, mà là tàu 143 của thuyền trưởng Lê Văn Thêm. Theo kế hoạch, tàu này vào bến Lộ Diêu của Bình Định, nhưng do bến không đủ nước nên mới cơ động vào Vũng Rô của Phú Yên. Hành trình bị chậm, ngụy trang không kỹ, tàu bị máy bay địch phát hiện và tập kích bắn phá, buộc ta phải hủy tàu. Kể từ sau “sự kiện Vũng Rô”, theo lời trung tá Thạnh, hành trình của những con tàu không số trở nên vô cùng gian khổ và nguy hiểm. “Địch bắn phá bất cứ chiếc tàu nào mà chúng nghi ngờ, nhiều tàu và chiến sĩ hy sinh là trong thời gian này. Về sau, chúng tôi phải đi vòng lên hướng biển Trung Quốc, sang hải phận các nước Philippines, Indonesia, Malaysia, vào Vịnh Thái Lan rồi mới cập bến được vào Cà Mau”.

 

HAI LẦN TỪ CHỐI ĐỀ NGHỊ PHONG ANH HÙNG

 

Ông có đến hai, đúng ra là ba lần, được đề nghị phong anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lần đầu tiên là trước khi đưa hàng vào Quảng Ngãi cuối năm 1966. “Tàu 41, với những thành công vang dội trước đó, đã được chọn để làm thí điểm tàu sắt chở vũ khí vào vùng biển bãi ngang miền Trung. Lúc bấy giờ, để vào được bãi ngang, ngư dân đánh cá chỉ sử dụng một loại phương tiện duy nhất là bè mảng làm bằng những luồng cây nứa ghép lại để không bị cát “hít” và sóng biển nhấn chìm. Vì lẽ đó, chuyện đưa tàu sắt nặng 100 tấn vào bãi ngang được coi là quyết định táo bạo, nhưng đó cũng là yếu tố gây bất ngờ cho địch. Tôi được hứa là nếu đưa tàu vào bến thành công thì sẽ được tuyên dương anh hùng ngay.

 

Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ bỏ vũ khí vào những bao ni lông cột chặt, đính vào đó những phao nổi và thả ở vùng biển gần bờ, để từ đó người của bến sẽ bơi ra lấy. Khi chúng tôi đã đưa 2/3 hàng hoàn tất thì tàu bị sóng đánh cong chân vịt, không thể cơ động được. Mà lúc đó thì trời đã gần sáng, bên ngoài có 2 tàu địch đang lởn vởn hòng bắt sống tàu ta. Chúng tôi đành phải dùng bộc phá phá tàu, bơi vào bờ, đi bộ ngược lên đường Trường Sơn, quay lại Hải Phòng và tiếp tục làm những người lính biển... Nhưng rồi sau khi về đơn vị không nghe ai nhắc gì đến chuyện anh hùng nữa...” – ông thản nhiên kể lại như vậy.

 

Sau 1975, thuyền trưởng tàu không số Hồ Đắc Thạnh tiếp tục công tác trong ngành hải quân, làm đến chức Phó Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh vùng 3 Hải quân Việt Nam cho đến 1984 thì xin nghỉ hưu sớm... Cho đến năm 2001, và mới đây là năm 2004, ông lại được đề nghị phong tặng danh hiệu cao quý đó. “Cả hai lần tôi đều viết thư gởi Bộ Tư lệnh Hải quân, cám ơn vì đã quan tâm, nhưng tôi muốn dành danh hiệu đó để tặng cho các liệt sĩ, tử sĩ đồng đội tôi đã xả thân vì đất nước. Riêng tôi, còn sống để chứng kiến đất nước thay da đổi thịt sau 30 năm giải phóng đã là điều rất mãn nguyện rồi” – ông nói.

 

NGUYỄN QUỐC KHƯƠNG

 

BÌNH LUẬN
Mã xác nhận:



Nhập mã:

CÁC TIN KHÁC
Ông Chủ tịch Hội vì người nghèo khó
Thứ Bảy, 14/10/2006 09:08 SA
Ông “gàn”... nổi tiếng
Thứ Bảy, 07/10/2006 09:13 SA
LIÊN KẾT
Báo Phú Yên Online - Địa chỉ: https://baophuyen.vn
Cơ quan chủ quản: Tỉnh ủy Phú Yên - Giấy phép hoạt động báo chí số 681/GP-BTTT do Bộ TT-TT cấp ngày 21/10/2021
Tổng biên tập: Nguyễn Khánh Minh
Tòa soạn: 62 Lê Duẩn, phường 7, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Điện thoại: (0257) 3841519 - (0257) 3842488 , Fax: 0257.3841275 - Email: toasoandientu@baophuyen.vn
Trang chủ | Toà soạn | Quảng cáo | Đặt báo | Liên hệ
Bản quyền 2005 thuộc Báo Phú Yên Online
Thiết kế bởi nTek