Sáng nay ngồi một mình, nhâm nhi ly cà phê khi phố thị xốn xang trong làn mưa trắng xóa. Nhìn những giọt trời lộp độp trên mái hiên, lòng chợt bồi hồi về bếp lửa ấm nồng ngày thơ bé cùng nội.
Cha thường nói, nếu bếp lửa là linh hồn của ngôi nhà thì nội là người nuôi dưỡng, gìn giữ linh hồn ấy. Bởi từ sáng sớm tinh mơ đến khi hoàng hôn buông xuống, nội dường như lủi thủi cùng bếp lửa. Gian bếp đơn sơ với chiếc kiềng ba chân hoen gỉ, bốn bề là mớ củi, lá dừa khô và những nồi xoong, rổ rá lủng lẳng. Mùa nắng nóng rực như lửa đốt, mùa mưa ẩm ướt khói bay mịt mù nhưng nội luôn dành tất cả tình yêu thương mỗi lần lui cui trong bếp.
Vào những ngày đông, nội dậy từ rất sớm lom khom nhóm bếp đun nước sôi pha trà. Ánh lửa đỏ bập bùng trong màn sương sớm, cùng tiếng réo rắt giòn giã của những thanh củi khô luôn hấp dẫn đứa trẻ tôi thức dậy ngồi cùng nội. Tôi ngồi trong lòng nội, nội cầm đôi bàn tay bé xíu của tôi xoa đều, hơ trên bếp lửa rồi phả vào hai má. Bên bếp lửa, tôi còn được nội thủ thỉ kể cho nghe bao nhiêu câu chuyện từ những tháng ngày xưa cũ. Hơi ấm của ngọn lửa hòa trong hơi ấm của nội khiến cái lạnh mùa đông như chẳng còn hiện diện.
Cha mẹ phải tất bật với bao công việc đồng áng nên những bữa cơm gia đình thường từ chính tay nội nhen bếp. Ngày nắng hanh hao, tôi thương sao những giọt mồ hôi lấm tấm trên vầng trán nội. Ngày mưa, những tấm tôn cũ kỹ dột xuống làm củi âm ẩm cháy chẳng ngon lành. Nội phải thêm vào bếp lửa từng hòn than củi mới đủ sức nóng làm chín thơm lũ cá rô đồng mập mạp. Nội còn nướng kèm củ khoai, củ sắn cho tôi tha hồ hít hà. Từng làn khói trắng tinh nghịch lẫn vào những sợi tóc bạc, rồi là đà chạy trốn khi bóng lưng nội cúi xuống, thổi vào chiếc ống tre cho than nhanh bén lửa.
Năm tôi học cấp hai, nghe cô giáo giảng về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, tôi thấy thương hình ảnh người bà bên bếp lửa. Phải chăng bà trong tác phẩm hay bà của bất kỳ ai đều giống nhau ở sự hy sinh, tảo tần và yêu thương con cháu vô điều kiện. Chẳng hiểu vì điều gì, mỗi lần đọc xong bài thơ, tôi thấy sống mũi mình cay cay, bùi ngùi nhớ về nội. Tôi cố gắng học thuộc lòng những câu thơ để đọc cho nội nghe trong một buổi trưa ngồi bên bếp lửa. Sau mấy câu thơ “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…”, nội móm mém mỉm cười, xoa đầu khen đứa cháu nhỏ.
Lớn thêm chút nữa, tôi được nội dạy cho cách nhóm bếp. Những lần đầu, cô bé là tôi luôn bối rối khi nhìn thấy ngọn lửa cháy thật to rồi tự dưng tắt lịm. Tôi lúi húi thổi phù liên tục để cố giữ ngọn lửa trong bếp mà không hay biết mặt mũi mình lấm lem vì lọ. Những lần như thế, nội nhìn tôi chẳng nhịn được cười, đành đưa tay giúp đỡ. Sau bao lần thất bại, tôi cũng dần thành thục với việc nhóm bếp, đỡ đần nội nấu những bữa cơm ấm áp tình thương cho cả nhà.
Rồi những mùa tết đến, dù ngày hay đêm, nội luôn giữ cho bếp lửa đỏ hồng suốt ba ngày tết. Nội nói, bếp lửa từ xưa luôn chứa đựng những điều thiêng liêng, gắn với câu chuyện ông Công ông Táo, những vị thần linh trấn giữ, độ trì cho gia đình. Chính vì thế mà việc giữ lửa trong những ngày đầu năm mới chính là giữ sự ấm no, sung túc, giữ những điều may mắn và mang hơi ấm cho gia đình.
Bây giờ khi đã lớn, bôn ba khắp dọc đường quê hương, tiếp cận với bao điều mới mẻ, hiện đại, nhưng thăm thẳm trong ký ức về những ngày thơ ấu, bếp ấm của nội vẫn đều đặn bập bùng. Cơn mưa sáng nay sao vẫn hoài dai dẳng như kéo mênh mang nỗi khắc khoải trong lòng
LÊ TRƯƠNG THÚY DIỄM