Bà Mừ dừng tay, gọi lớn:
- Ông ông, ông để đấy tui. Qua cột chèn (chằng) chống mái tôn giùm cho con Chín... Ông Mừ đang nghe tiếng alo ngoài đường: “Bà con khẩn trương chằng chống nhà cửa, siêu bão số 10 sẽ tiến vào đất liền gây thiệt hại cho các tỉnh từ Thanh Hóa đến Phú Yên trong đêm nay...”.
Ông Mừ quay qua phía vợ:
- Gì hẽ (hả), mình nhà ngói bà bảo chèn là chèn chỗ nào? Tui cắt tỉa bớt lá chuối với đu đủ cho bớt cản gió chớ để lè phè như ô dù, áo váy lòng thòng gió lùa có nước ngã nhào, chịu sao nẩu (nổi).
- Không phải. Ông cứ để đấy, tí nữa về còn kịp thì làm, giờ qua chèn chống giùm mái tôn cho con Chín.
- Quã (ủa). Chồng nó dìa (về) rồi hả?
- Chồng nó dìa thì chồng nó chèn chớ tui bảo ông qua chi. Mau qua làm giùm nó cho chắc chắn, cho mau rồi dìa.
- Quã, chớ sao mấy hổm (hôm trước) nói: không có chồng nó mà qua bên ấy nói chuyện với ai. Bà cấm tui?!
- Tậu (tội) quá, đi mau đi mau. Nghe thôn a lô không?
Ông Mừ vô nhà mặc thêm cái quần dài, lấy dụng cụ: kềm, búa, dây dừa...
- Lại đây!
- Gì nữa?
Vừa nói bà Mừ vừa nhét vô túi quần ông mấy tờ bạc loại 10, 20 ngàn. “Qua bển có thiếu dây nhợ, đinh ốc thì sai thằng cu Tí đi mua, biết đâu mẹ con nó đang kẹt”.
- Hì. Để tui sai thằng cu đi mua dầu dìa đúc bánh xèo ăn chiều luôn.
- Coi chừng ông. Bà vừa nói vừa nhịp nhịp cái dao đang bằm chuối cho vịt... Ông Mừ vừa đi vừa cười vì nhớ chuyện cũ không đầu không đuôi.
Năm trước, sau bão số 9, mưa nhẹ hạt dần, trời se lạnh. Từ chợ xổm về, bà Mừ đi rất nhanh, bỏ cái giỏ kẹp chỗ hàng ba rồi quẹo phía hông nhà vừa đi vừa chạy ra bờ tre sau hè, tìm nấm. Ở xứ đất Phú trời Yên này, nấm rất đồng lòng; khi tiết trời thích hợp, nấm mọc, là chỗ nào cũng mọc lên như nhau; có người nói, nấm phang cũng biết hẹn hò.
Vừa đi đến đầu chợ, thấy có người ngồi bán nấm, bà Mừ vội mua bó rau muống rồi về liền chứ không tiến sâu vào trong chợ cầm lên để xuống từ cá đồng đến khoai, củ, đậu hũ… như mọi hôm. Dự đoán của bà chẳng sai, “nấm nẫu (người ta) mọc thì nấm nhà mình cũng mọc”. Khoang nấm cũ, xịch qua một chút, nấm mọc một dạt dài, cái lu lú, cái đội mũ, cái bung dù, cao thấp đủ cỡ; tất cả được bà nhẹ tay cho vào đầy mủng (mủng nhỏ hơn thúng).
Bưng mủng nấm ngang hông như ẵm con, vừa đi vừa cười tủm tỉm, “coi nè ông, một thúng đầy luôn”. Bà nghiêng mủng nấm về phía chồng rồi nói tiếp “để tui chia phần, ông đem giùm cho chú Ba, chị Bảy với dì Năm. Ông nói chắp theo “cô Chín với chú Dư nữa chớ. Nhiều mà”. Bà hứ một tiếng dài thượt rồi bưng mủng nấm ra thềm giếng; chân đi ra mà mắt liếc vô như quật đèn pin. Ông Mừ như giật mình: “Quã quên” rồi bỏ lửng...
Phía bên kia lũy tre là nhà ông Dư với nhà cô Chín. Nhà ông Dư đối xứng (qua bụi tre) với chỗ bà Mừ hay ngồi nhổ nấm; nhà cô Chín thì kế bên nhà ông Dư. Trước đây mỗi lần nhổ nấm, ông bà Mừ hay bưng cho hai người này trước tiên, còn dư thì mới cho mấy người kia… Nhưng hai năm nay, nấm bà Mừ nhổ không qua đến nhà cô Chín nữa. Lần sau cùng vào tháng 11, sau cây bão con voi (2017). Đã lâu nhưng bà Mừ vẫn nhớ cả ngày giờ, kể cả diễn biến và thiệt hại do bão gây ra; ai nhắc đến bão con voi là bà kể vanh vách.
1.
Hôm ấy, ông Mừ xách bì nấm do vợ gói sẵn đem qua cô Chín, lúc cô đang rong dọn mấy cây cam đổ ngã choàng qua nửa sân. Bão đi qua cả tuần, xóm làng dọn dẹp vườn tược gọn gàng nhưng vườn nhà cô Chín thì còn đổ ngã bề bộn. Móc bì nấm lên chảng ba úp gáo bên thềm giếng; ông Mừ vội chạy kéo cành cam cô Chín đang chặt cứ dính lằng nhằng sau đuôi ngói chái bếp. Thấy chân mềm tay yếu, cầm cái rựa trái trớt, ông không chịu được, “đưa cái rựa đây cho qua (anh)”.
Vậy là cái rựa cùng ông say sưa như việc nhà mình. Mừ chặt, Chín kéo cành nhánh xếp sát bìa rào, hăng say, vui vẻ như học sinh lao động ở sân trường.
Cái giống cam với bưởi, gai góc, khó chơi, đụng đâu trầy xước đấy, Mừ luôn miệng nhắc chừng “coi chớ trúng tay, coi chớ gai bưởi đâm nhức lắm…; phải chi chú Chín đững mê Sài Gòn, ở nhà ổng dẹp dọn sạch trơn chớ đâu tới giờ…”.
Không biết có phải nhắc đến Chín, thằng chồng bội bạc mê cô đại lý vé số bỏ vợ bỏ con (theo lời đồn của bà con trong xóm). Mà cũng tại cây lụt năm trước, nước lũ sông Ba lên nhanh không kịp trở tay, lấy hết bầy bò… nên chồng Chín mới đi, chớ trước đấy anh chưa khi nào đi làm xa đến trăm cây số… Cô Chín vô ý giật mạnh tay, vung ngang quá trớn, cánh tay xượt qua chùm gai bưởi, xé một vệt dài trên bắp tay, máu ứa ra gặp mồ hôi cứ loang rộng thêm theo đám lông tơ đi tứ phía…
Ông Mừ quay lại thấy, giật mình, vội vàng ném cái rựa, thò tay móc túi quần lấy gói thuốc Quốc Tế, xé nát mấy điếu thuốc, chúm trong ba ngón tay đưa cô Chín. “Cô cô, cô đắp cái này dô (vô) cho cầm máu”. Chín hít hà, mặt tái nhợt, nhăn riết như cắn trúng trái ớt xiêm; tay kia bóp chặt bàn tay có vết xước, không thả ra. Thấy vậy, ông Mừ vội vàng cầm tay Chín, rải mớ thuốc Quốc Tế lên vết xước rồi đè đè nhẹ ép mấy cọng thuốc lởm chởm cho sát xuống, nằm im, máu cũng nằm im, không bò theo mấy cọng lông tơ nữa. Cô Chín cứ nhôm nhổm hít hà vì khi có mớ thuốc sát trùng, càng rát hơn.
Nãy giờ bà Mừ đứng ngoài ngõ, tê chân, bà đổi ý, không qua nhà Chín xin lá gừng nữa. Xoong nấm bữa nay nêm ớt hiểm nhiều gấp hai thay cho lá gừng.
Dọn dẹp xong, ông Mừ về tắm rửa, thay đồ, soi gương chải tóc… cũng vừa bữa trưa. Lao động nặng, mau đói, cơm nóng, có món nấm nấu mẳn, đại tiệc nào bằng… “Ủa sao má thằng Bốt nấu nấm mà không nêm lá gừng, đám gừng bên cô Chín thiệt tốt luôn, sao không qua ngắt ít lá dìa nêm?”. Bà Mừ im ru, gắp cọng rau muống luộc, nhai mạnh như bằm chuối cây trộn cám cho vịt. Ông Mừ hít hà “sao nêm cay dữ…”.
Bà Mừ vẫn im ru, xong chén cơm, bỏ đũa, chống gối, đứng lên, nặng trịch. Ông Mừ ngước nhìn: Sao bữa nay ăn ít hẽ? - No rầu (rồi). Ông Mừ vừa ăn vừa hít hà, “cay quá, hơi mặn nghen má cu Bốt”. Bà quay lại: “Chắc bên con Chín nấu nêm vừa miệng hơn”, vừa nói vừa đi xuống bếp. Ông nói với theo: “Tội nghiệp con Chín, một mình không dọn nổi đám cây ngã; giờ còn làm bển chớ có cơm nước gì đâu mà ngon dở”.
Cơm trưa xong, bật ti vi, ông Mừ lại nhớ thuốc, gọi dói ra thềm giếng: “Má cu Bốt ơi, sẵn đội nón, qua quán chị Thừa mua giùm gói thuốc, hết trơn rồi”. Bà đang rửa chén, ném cái bùi nhùi chà xoong, đáp trả: “Khỏi. Bóp nát cho êm tay chớ có hút đâu mà mua cho tốn tiền”. Lần này ông đã hiểu ý vợ; ông bước lại vịn cánh cửa hông, nhìn bà cười hì hì, “để tui đi, sẵn ghé qua cô Chín ngắt ít lá gừng, chiều nêm lại xoong nấm cho ngon”. Nói vậy nhưng ông lại đi trở vô, ngồi xem ti vi, cười một mình. Kết quả, ông bỏ thuốc được một ngày và một đêm.
2.
Nhà ông Dư thì khỏi cho nấm từ mùa đông năm vừa rồi. Từ hôm bà Mừ qua xin cục đá lạnh về cho chồng uống bia với ông Dư. Hôm ấy bà Dư đi nuôi con gái sinh trong Sài Gòn, mình ông Dư ở nhà, ruộng cày xong hai bận, bờ góc cũng xong, qua rủ ông Mừ xuống giống (thường lệ cứ hết mùa nấm là đến mùa sạ vụ ba). Sẵn còn mấy lon bia, đủ loại nhãn hiệu, hôm đám giỗ uống chưa hết, ông Mừ nói: “Chú Dư, giúp tui làm cho hết mớ bia lẻ, cho yên tâm bừa sạ nghen chú; má cu Bi, ra quán mua cho anh cục đá”. Ông Dư cản: “Khỏi mua đi anh, qua tủ lạnh nhà em lấy cho mau, chị Mừ đi giùm nghen, nhà em không khóa cửa”.
Bà Mừ xách cái xô nhỏ qua nhà ông Dư, mở tủ lạnh, bì ni lông đựng gì bên trong mà trăng trắng sọc sọc, xếp đầy cả hộc đá nhưng không phải đá, chỉ có một khay đá nhỏ. Gợi máu tò mò, bà Mừ lấy một bì có màu lạ ra gần cửa cho sáng, săm soi. Đúng rồi. Nấm.
Bà nhớ lại, hôm trước có người bày: nấm đem luộc sơ rồi cho vô ngăn đá, để ăn dần cả năm vẫn ngon. Bà lẩm nhẩm một mình: “Nấm là quà tặng của thiên nhiên, được nhiều thì đem cho người quen, cả xóm cùng ăn mới ngon chứ ai lại để dành; cũ sao ngon bằng mới được”. Bà sắp xếp lại ngay ngắn, đóng cửa tủ, xách bì đá về, trong đầu cứ chập chờn câu hỏi, nấm đâu mà nhiều thế?
Hai ông thời sự vòng quanh từ chuyện cày sạ đến bóng đá Seagame, vỏ lon bia dưới chân lổn cổn; cũng vừa bữa, bà Mừ dọn cơm trưa, vừa sắp chén vừa cười tươi: “Mời hai anh lót dạ chén cơm, sáng nay không đi chợ nên chẳng có món ngon đãi chú Dư, toàn là rau”.
Ông Dư giọng ngà say gật gật “dạ dạ, canh tập tàng là nhứt rồi chị, là món hảo của em. Hồi nãy em quên nói chị đi lấy đá sẵn cầm bì nấm phang trong tủ qua nấu… Năm nay trời lạnh, cái phang (khoang) nấm trong vườn mọc cả gánh”. “Chú mày cứ nói dóc”, ông Mừ tưởng Dư nói đùa kiểu: cá thu, mực nang nuôi sau hè, trái tràm treo trên lưới B40…
Bà Mừ cứ chập chờn suy nghĩ, mà con Dư xưa nay nó có cho ai cái gì đâu, mặc kệ nó… Bà lén ra chỗ bụi tre, chồm qua bên kia, dấu vết như gà bới. Bà nghĩ: phang nấm có cả hai bên hàng tre chứ không phải chỉ bên này. Bà cười một mình…
Mấy hôm nay, nghe tin mở con đường rộng chục mét dọc theo lũy tre, sắp khởi công… Ông Mừ sẵn sàng hiến đất với tre nhưng ông lại tiếc cái phang nấm, ông bảo: Tốn bao nhiêu đất cũng được, miễn có đường sá rộng rãi đi cho sướng; phía nhà cô Chín cũng sáng sủa hơn... Ông chỉ sợ mất cái phang nấm.
Thấy ông xuýt xoa, bà Mừ nghinh nghỉnh: “Ủi hết cái phang nấm càng tốt, khỏi mắc công ông đi xin lá gừng, bảo xin giống về trồng thì không chịu; có tiếc thì đào đất chỗ đấy đổ vô trong vườn; cái giống nấm phang nó mạnh lắm, đổ đâu là mọc đấy…”. Ông Mừ như sực tỉnh: “Bà nói đúng, mai mốt làm đường, xe ủi hất đất qua hai bên, bên nào chẳng có nấm”.
NGÔ TRỌNG CƯ