Francis Bret Harte (1836-1902) là tiểu thuyết gia, nhà thơ người Mỹ, sinh tại TP Albany, New York. Năm 1853, ông đến sinh sống ở California bằng nhiều nghề: thợ mỏ, nhà giáo và nhà báo. Các tác phẩm chính gồm: Cuộc thảm sát năm 1860, Chuyện Trại Gầm (1868), Những kẻ bị ruồng bỏ (1902), Bạn tình (1905)…
![]() |
John Oakhurst là một con bạc, chỉ sống một thời gian ngắn ở Porker Flat, một thị trấn nhỏ ở phía tây. Nơi này, hắn đã thắng nhiều con bạc khác, thu về thật nhiều tiền. Vì lẽ đó, hắn không được yêu thích nhiều.
Vào sáng ngày 23 tháng 11 năm 1850, khi đặt chân xuống con phố chính trong thị trấn, hắn thấy có vài gã đàn ông đang xì xào bàn tán. Khi hắn đến gần, bỗng nhiên họ trở nên yên lặng. Hắn nhủ thầm: “Hừm, mình đoán chắc bọn chúng đang nói xấu mình đây!”. Hắn đã đoán đúng. Vài vị đứng đầu thị trấn đã bí mật gặp nhau, điểm mặt một số người buộc phải rời khỏi đây. Họ cho rằng thị trấn Porker Flat sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu những con người đó không có mặt.
Ngoài Oakhurst ra, hai người nữa được cho là có phẩm hạnh kém bị tống đến sống ở khu vực giáp ranh thị trấn. Họ thường được người trong thị trấn gọi với cái tên là “Vợ tay bán hành rong” và “Mẹ Shipton”. Còn một gã nữa, gọi là “Chú Billy” cũng được quy vào nhóm này. Gã này được biết là một tay nát rượu. Người ta đồn rằng hắn cũng đã đạo chích một số vàng ở đâu đó, nhưng không có bằng chứng. Nhưng việc đó không thành vấn đề. Chỉ việc “Chú Billy” không tốt nên phải ra đi thôi.
Những kẻ bị ruồng bỏ được thông báo rằng nếu bắt gặp người nào trở lại thị trấn thì sẽ bị bắn bỏ ngay. Vì thế bốn người bọn họ chậm rãi lên ngựa rời khỏi thị trấn. Lúc ra đi, “Vợ tay bán hành rong” than van và thét toáng lên rằng cô có lẽ sẽ chết trên đường, còn “Mẹ Shipton” và “Chú Billy” chửi rủa ầm ĩ. “Mẹ Shipton” nói bà muốn moi quả tim của những người làm việc này đối với họ. Chỉ mỗi John Oakhurst lên ngựa ra đi trong lặng lẽ. Hắn cho rằng cả cuộc sống là một ván bài. Hắn vừa gặp phải vài điều xui xẻo. Chỉ thế thôi!
Họ được chỉ định đi đến khu vực cồn cát, nơi này có một căn trại cách không quá xa, nhưng nó nằm chót vót trong dãy núi Sierra lạnh buốt, còn lối đi đến đó hoàn toàn không bằng phẳng. Chừng giữa trưa, “Mẹ Shipton” trở nên quá mệt mỏi, bà rơi khỏi con ngựa. Bà cho đó là một quãng đường quá xa bà đang đi hôm nay. Oakhurst cố giúp họ tiếp tục di chuyển bởi anh thấy họ chẳng có chút lương thực hay nhiên liệu nào mang theo bên mình cả, nhưng ba người kia dường như không muốn nghe, thay vì thế họ bắt đầu nốc rượu của “Chú Billy” giấu theo trong người. Chẳng mấy chốc họ rơi vào im lặng rồi ngủ thiếp đi.
Chỉ mỗi Oakhurst không uống, hắn đứng gần nhìn họ rồi bắt đầu miên man nghĩ về cuộc đời hắn và cảnh cô độc đã trải qua, nhưng hắn mạnh hơn ba kẻ đồng hành kia. Lẽ ra hắn bỏ họ ở lại đó rồi lặng lẽ một mình tiếp tục cuộc hành trình, nhưng hắn đã không làm như thế, vẫn đứng đợi họ. Rồi sau đó, hắn nghe tiếng ai gọi tên mình. Hắn nhận ra chàng trai tên Tom Simson đang cỡi ngựa đi đến. Hắn biết Tom trong một trận bài nọ. Trận đó hắn đã thắng, nhưng sau đó hắn nói với Tom rằng hắn đã chơi lận quá dễ dàng rồi trả tiền lại cho Tom. Tom đã cảm kích, tuyên bố kết bạn với hắn suốt đời.
Tom không đi một mình, cô vợ mới cưới của anh từ sau một bụi cây đi đến. Cô tên Piney Woods. Bố cô không đồng ý cho cô lấy Tom, thế nên họ dắt nhau chạy trốn. Tom cho hắn biết anh ta có một ít lương thực. Anh ta cũng chỉ cho hắn một ngôi nhà cổ bằng gỗ cách xa lối đi này. Qua nhiều năm thời tiết khắc nghiệt, căn nhà gần như bị hủy hoại. Nhưng nó là tất cả những gì họ có được, phải sử dụng thôi, chẳng thể làm gì hơn được. Cánh đàn bà có thể nghỉ lại đêm ở đó, còn cánh đàn ông đốt lửa và ngủ trên nền đất cạnh chiếc cửa ra vào.
Đêm dường như trôi qua nhanh, nhưng thời tiết trở lạnh hơn. Gió càng lúc càng mạnh thêm, rồi tuyết bắt đầu rơi. Oakhurst linh cảm có điều chẳng lành xảy ra, hắn quay sang chỗ “Chú Billy” nằm, nhận ra ông ta đã biến mất. Ông ta chẳng những bỏ những người khác ở lại, mà thậm chí còn dắt cả ngựa của họ theo luôn. Oakhurst an ủi mọi người rằng “Chú Billy” có lẽ đã đi tìm giúp đỡ, nhưng trong lòng hắn thừa hiểu tính khí ông ta. Cả năm người quyết định đợi tuyết ngừng rơi trước khi tiếp tục cuộc hành trình đến nơi xa hơn. Không còn ngựa, từ đây trở đi họ đành phải lội bộ. Vào ngày thứ ba kể từ khi rời thị trấn Porker Flat, tuyết đã đóng dày không còn thấy lối đi, còn lương thực đang vơi dần. Mọi thứ xung quanh chỉ là một màu trắng và lạnh lẽo. Đến một tuần sau đó, họ vẫn chưa thể di chuyển được. Tuyết tiếp tục rơi và lại đóng dày hơn bao giờ hết, tuyết cứ rơi mãi rồi hình thành một ngục tù không thể thoát ra được. Nhưng họ vẫn có thể thấy được khói bốc lên từ những chiếc lò sưởi ấm áp của các căn nhà dưới tầng hầm ở thị trấn Porker Flat, một địa danh dường như cực kỳ ác độc!
Nhưng những kẻ bị ruồng bỏ cố giữ vững tinh thần, bằng cách có thể làm được giữ ấm cho mình. Họ cùng nhau ngồi cạnh chiếc lò sưởi ngoài trời của riêng họ. Tom Simson lôi chiếc đàn ắc-coóc-đê-ông nhỏ trong chiếc ba lô của anh đưa cho cô vợ Piney Woods chơi, rồi tất cả cùng hát. Âm nhạc dẫn lên âm sắc thách thức, âm sắc của sự kháng cự. Nhưng rồi họ cũng phải nghe tiếng kêu đau buồn của những chiếc bao tử hầu như rỗng không. Tình trạng đói trở nên tồi tệ hơn qua mỗi ngày.
Vào lúc nửa đêm ngày thứ mười, “Mẹ Shipton” gọi Oakhurst đến bên cạnh. Bà nói:
- Hãy đưa cái này cho những người trẻ!
Trong chiếc túi là tất cả lương thực của bà ta. Đã nhiều ngày rồi bà không ăn được, nên dành dụm lương thực cho những người khác. Nói xong bà ta lặng lẽ quay mặt về bức tường của căn nhà gỗ rồi tắt thở.
John Oakhurst bắt đầu hiểu được sẽ không ai trong họ sống sót qua trận bão. Hắn đưa cho Tom Simson một cặp giày đi tuyết và bảo Tom cố lội ngược về thị trấn Porker Flat gọi cứu giúp. Hắn đoán sẽ phải mất ít nhất là hai ngày để đến đó nếu Tom không bị chết. Tom hôn cô dâu mới rồi lội bộ ra đi. Chẳng bao lâu sau anh đã khuất khỏi tầm nhìn của họ. “Vợ tay bán hành rong” và cô Piney ngạc nhiên và hoảng sợ khi Oakhurst cũng quay người để đi. Họ thét toáng lên:
- Anh cũng sắp đi ư?
Hắn đáp:
- Chỉ một đoạn đường không đáng kể. Tôi cần tìm người đến giúp chúng ta.
Vào thời điểm đó trong năm, ngày ngắn hơn đêm. Khi đêm đến, Oakhurst đã không quay về. Hai người phụ nữ quá đói, yếu và lạnh đến nỗi không thể nhích người cho thêm củi vào lò sưởi được. Họ trải qua đêm bão ấy bằng cách ôm chặt nhau. Đó là tình cảnh họ được tìm thấy vào sáng hôm sau khi những người ở Porker Flat đến cứu giúp. Họ đã chết cóng trong đêm!
Những người cứu hộ đến từ thị trấn phân trần họ đã đúng khi buộc những kẻ bị ruồng bỏ rời khỏi Porker Flat, nhưng họ không nghĩ hình phạt sẽ kết thúc như thế này. Vì lẽ phải họ phải làm như thế, nhưng việc làm cho người ta chết cóng không phải là chủ tâm của họ. Và rồi họ nghĩ đến con bạc. Hắn ở đâu? Điều gì đã xảy ra với hắn? Rồi họ bắt đầu tìm kiếm trong điều kiện tốt nhất có thể được, và sau đó họ đã tìm thấy hắn. Dưới một cây cao cạnh một con dao có một lá bài được cắm vào thân cây. Trên lá bài có dòng chữ:
“Bên dưới cây này nằm là xác của John Oakhurst, người gặp vài điều xui xẻo bắt đầu vào ngày 23 tháng 11 năm 1850. Hắn giao nộp những lá bài vào ngày 7 tháng 12 cùng năm.”
Oakhurst ngồi đó, lạnh lẽo và lặng thinh. Họ cho rằng hắn trông có vẻ thanh thản. Một phát đạn đơn lẻ phát ra từ cây súng ngắn ở bên cạnh đã kết liễu cuộc đời hắn. John Oakhurst đã vừa là người mạnh mẽ nhất, vừa là người yếu đuối nhất trong những kẻ bị ruồng bỏ của thị trấn Porker Flat.
Trần Phi Tơ (dịch)