Thuở bé, tôi là đứa bám bà nhất trong năm đứa cháu, ngủ cũng được nằm gần bà nhất để được bà vỗ về và quạt mát. Vậy nên lúc bà dậy sớm, tôi cũng bỏ dở giấc ngủ để lui hui dậy theo bà vào mỗi sớm. Khi đó, trời còn nhá nhem tối, ngọn đèn dầu trên bàn bị khêu xuống nấc thấp nhất vẫn còn đủ sức thắp lên ánh sáng leo lét. Bà khẽ khàng cầm theo chiếc đèn dầu xuống bếp, khêu hơn một tí để nhìn xung quanh bếp cho rõ rồi đặt lên đầu tủ bếp bắt đầu nhóm lửa.
Tôi chỉ ngồi chồm hổm trông bà sắp củi, dọn bếp, tay vội vơ một tờ giấy, đợi đến khi bà chụm bếp xong là đứng dậy đến bên cái đèn dầu xé nhỏ giấy rồi thò vào chụp đèn mà nhen lửa. Giấy bén lửa là kéo ra, khum tay che lại cho khỏi tắt rồi bước nhanh đến đưa cho bà nhen bếp. Bà đưa tờ giấy vào rất khéo, cứ thế tiếp nối, chỉ cần hai tờ giấy xé nhỏ là bếp củi đã được bà nhen xong và quay ra tắt đèn. Lửa bén, tôi quạt bếp cho vãn khói, còn bà xách ấm ra ngoài sân lấy nước. Trong lúc đợi nước sôi, tôi sẽ hơ tay và làm đủ trò, còn bà tất bật đong gạo, rửa khoai để chuẩn bị bữa sáng, nước nóng lên là bà xong phần chuẩn bị rồi bước vội ra sân để hái chè.
Lúc này bếp cũng đã cháy tốt, không cần ngồi trông như mới đầu nên tôi sẽ theo chân bà đi hái chè. Bà hái chè bằng cả hai tay, tay phải nắm chắc cành bên dưới và giữ chặt, tay trái dùng móng tay cái bấm chặt vào phần mắt lá và bấm nguyên một nhánh chè. Bà nói đấy là cách ngắt bịt mắt chè, tay phải cầm ở phía dưới cành ngoài nhiệm vụ cố định cành cho dễ hái thì phải che trọn cái hình ảnh cành chè phía trên bị ngắt đi, để chè không thấy sợ cảnh bị ngắt, không sợ đau nên mới nhanh nảy chồi và lên mầm.
Bà ngắt theo kiểu ước chừng, chỉ cần một nắm tay lỏng là vừa đủ cho một ấm chè tươi đậm đà. Tôi lật đật chạy lên nhà bưng cái tích nước đổ hết bã chè của hôm qua, tráng sạch tích rồi đưa cho bà bỏ chè vào. Bà không dùng tay vò chè, bởi như vậy chỉ có nước chè đầu đậm vị, nếu chế thêm nước lần nữa thì sẽ bị nhạt, chẳng còn vị chè xanh nữa.
Xong việc, hai bà cháu vội vào bếp. Lúc này ấm nước đã bắt đầu reo nhẹ, nhưng bà chỉ đút lửa vừa chứ không cho tôi thổi bùng lên, bà bảo lửa to làm nước sôi bùng lên rồi tràn ra bếp, chỉ cần liu riu như vậy đến khi sôi hẳn là được rồi. Khi bà nhắc ấm ra khỏi bếp, tôi cũng rất ăn ý, bưng tai cầm của xoong cơm, hay xoong khoai đã chuẩn bị lúc nãy cho lên bếp để thay thế. Bà dạy, phải nấu trước một ấm nước để cho bếp đượm than, có ủ cơm, hay ủ khoai thì chín mới đều và thơm.
Bà cẩn thận rót nước vào tích, chỉ rót chừng một cốc nhỡ rồi đậy nắp lại và xóc một lúc. Nước chè này sẽ phải chắt đổ đi, xong xuôi rồi mới đổ nước lần nữa vào tích và đem đi ủ.
Cả nhà bao giờ cũng dậy khi đồ ăn sáng đã sẵn sàng nóng hổi, ăn sáng xong thì chè cũng vừa ngấm. Bố ra bàn ngồi rót một cốc nước chè xanh nóng hổi, vàng xanh sóng sánh vừa thổi vừa uống khà một tiếng đầy mãn nguyện rồi mới hối hả đi làm.
Khi ấy, cả xóm nhà ai cũng có một hàng chè xanh trước nhà, đi ngang qua nhà là gọi mời nhau vào uống chén nước, chuyện trò dăm ba câu. Những câu chuyện quanh ấm nước chè là một phần của tuổi thơ tôi, để sau bao nhiêu đổi thay, sau bao nhiêu lần đi xa, đến khi trở về ngồi bên bà và bố, với ấm chè xanh, mới thấy mình thảnh thơi như chưa từng khôn lớn…
KIM SƠN