Đọc Tiếng làng của Phan Xuân Luật - một người con xứ Nghệ đã sống nhiều năm ở Phú Yên - ta nhận ra: Không phải cứ viết về quê là có thơ hay. Nhưng nếu thơ còn vọng được tiếng làng, thì chắc chắn người viết ấy vẫn giữ nguyên một cội nguồn chưa từng phai nhạt.
![]() |
Tác giả Phan Xuân Luật và tập thơ "Tiếng làng". Ảnh: CTV |
Viết về những miền ký ức, bằng tư thế của người trong cuộc
Ngay từ bài thơ đầu tiên - Miền Trung - nhà thơ đã đặt ra một địa hạt thơ vừa riêng vừa chung: nơi “nghĩa trang dày như xóm, như làng”, nơi “gió Lào rát bỏng”, nơi “trai tráng không về” và “người sống kề bên người chết”. Những hình ảnh ấy không chỉ gợi lại một miền Trung khốn khó, kiên cường, mà còn khắc họa những ám ảnh lịch sử - nỗi buồn và bản lĩnh của một vùng đất từng là địa tầng giao tranh ác liệt.
Nhưng Phan Xuân Luật không viết bằng sự cường điệu bi lụy, mà bằng sự đồng cảm sâu thẳm. Ông viết bằng tư thế của người trong cuộc. Chính điều đó làm nên giọng điệu đặc trưng: mộc mạc mà thâm trầm, không cố biện giải mà vẫn khơi gợi được tầng nghĩa sâu xa.
Phan Xuân Luật là người viết thơ bằng “tiếng ru của đất”, không cần dụng công làm thơ, mà thơ tự “mọc lên” như mầm lúa trên nền đất ký ức.
Không ít bài thơ trong Tiếng làng là những hồi ức không đặt dấu chấm hết. Những hình ảnh tưởng đã cũ, đã mòn, lại được thắp sáng bằng cái nhìn đầy hồi cố. Trong bài Đất, đất không chỉ là chất liệu của sự sống, mà còn là chứng nhân của một đời cha mẹ lam lũ:
“Cha tôi đi cày về
Ngón chân tòe ra như rễ…”
“Đất bạc đầu
Nếp nhăn tiền kiếp…”
Đất còn biết lo cùng lòng mẹ, nghĩ cùng trán cha, biết khát khô, biết bạc đầu... Đất là nhân vật sống, mang tâm hồn và ý chí của người quê.
Những đứa trẻ làng tôi là một trong những bài thơ đẹp nhất về ký ức tuổi thơ chiến tranh. Ở đó, chiến tranh không chỉ là súng đạn mà là trò chơi “du kích”. Và rồi khi lớn lên, “chẳng đứa nào làm vương làm tướng”, mà “về làng làm ruộng”. Một thực tế buồn nhưng không mất vẻ thơ ngây. Cái hay của bài thơ là ở sự chuyển hóa cảm xúc: từ hồn nhiên đến bi thiết, từ khôi hài đến ngậm ngùi.
Nhiều bài thơ khác như Làng cổ, Ra Giêng, Lục bát tháng ba, Tháng ba... tiếp tục mở rộng miền hồi ức ấy. Tất cả như một chuỗi câu chuyện kéo dài từ cánh đồng đến bàn thờ tổ tiên, từ ngọn khói bếp đến tiếng hò ru đêm. Ở đó, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện biểu đạt mà còn là một “hương liệu ký ức” - đậm mùi bùn đất, rơm rạ, nước sông và cả mồ hôi người thân.
Một điểm đặc biệt khác của Tiếng làng là sự gắn bó giữa thân phận con người và lịch sử đất nước. Phan Xuân Luật không viết thơ cách mạng theo kiểu biểu ngữ, mà viết bằng niềm biết ơn sâu xa, bằng nỗi đau lặng lẽ và bằng ký ức vẫn còn cồn cào trong tâm khảm.
Trong những bài như Người lính giữ biên cương, Gửi về Gạc Ma, Đại tướng của Nhân dân, chất sử thi được thể hiện qua giọng điệu bình dị. Không có những câu từ đao to búa lớn, không có những từ vựng rực rỡ hay thế đứng anh hùng hóa, tác giả chọn một lối nói mềm, nhẹ, giàu hình ảnh và cảm xúc:
“Là nơi ấy, anh nằm trong đất mẹ
Hóa thân vào cây cỏ quê hương…”
(Người lính giữ biên cương)
Người lính trong thơ Phan Xuân Luật không hóa thánh, mà là người - rất người - với đủ đau đớn, mất mát, dấn thân và hóa thân. Thậm chí, sự hy sinh của họ được gợi ra bằng hình ảnh: “ngã xuống rồi Tổ quốc vẫn trong tim”, hay “hóa cột mốc ngàn đời vững chãi”... Những hình ảnh ấy có khả năng gợi xúc cảm bền lâu hơn bất kỳ lời lẽ hô hào nào.
Tập thơ Tiếng làng (NXB Hội Nhà văn, 2024) là kết tinh của hơn nửa thế kỷ tác giả sống, yêu và trở về - trở về bằng nhớ, bằng thương, bằng cả những “trang thư dính bùn”, bằng “câu ví dặm à ơi”, bằng những bữa cơm “mặn vào tuổi tóc bạc”. Đọc thơ Phan Xuân Luật là đọc tiếng quê - thứ tiếng từ trong đất, từ đáy ruột, từ đời sống nhọc nhằn của người nông dân miền Trung. Chính nền văn hóa nông nghiệp, nền văn hóa lúa nước gắn liền với đất, trời, sông, gió đã thấm sâu vào chất thơ của ông.
Đặc biệt xúc động là bài thơ Những lá thư cha viết. Đây không chỉ là một bản tình ca của phụ tử, mà còn là minh chứng cho một kiểu ngôn ngữ rất “người Nghệ”: mộc mạc mà ấm nóng, chặt chẽ mà cảm động. Những lá thư viết vội giữa hai lần tiểu phẫu, những dòng kể chuyện anh em cho nhau nghe qua giấy, những lời răn dạy không cao giọng:
“Cha dặn ở hiền gặp lành, không được ác với ai
Đừng chi li thiệt hơn…”
Tình cha trong thơ không chỉ là tình cảm, mà là nền tảng đạo đức. Và điều khiến bài thơ trở nên ám ảnh là sự gián đoạn ở cuối:
“Rồi một mùa hè không nhận được thư…
Người quên hết những đớn đau mệt mỏi tuổi già
Hạnh phúc nhìn các con và ra đi thanh thản…”
Không lời nào bi lụy, nhưng tất cả đều thổn thức. Nhà thơ không cần kể lể, vì ông biết: chỉ một câu đúng, đúng thời điểm, đúng chỗ trống trong lòng người đọc, là đủ rung.
Những lát cắt ngọt lành
Giữa không gian đầy hồi cố, trăn trở và chiêm nghiệm của Tiếng làng, mảng thơ viết cho thiếu nhi hiện lên như một vùng ánh sáng tươi. Đó không phải là những bài thơ chỉ dành cho trẻ con đọc, mà là những lát cắt ngọt lành của ký ức - nơi người lớn tìm thấy tuổi thơ mình, trong veo và hồn hậu.
Có thể nói, đây là phần thơ tạo nên bất ngờ thú vị nhất trong toàn tập. Các bài như Bé làm cô giáo, Bé và Cún, Mẹ và bé, Viên bi của bé, Mẹ Hằng, Bé chờ ba, Ban mai của bé… là chuỗi những khoảnh khắc đời thường nhỏ bé nhưng gợi cảm xúc sâu sắc. Thơ viết cho trẻ thơ của Phan Xuân Luật không dạy dỗ hay rao giảng, cũng không giả vờ ngây ngô. Đó là thơ của một người đã làm cha, đã sống thật với con, đã quan sát đời sống trẻ thơ bằng sự thấu cảm tinh tế và lòng trìu mến.
“Chữ o tròn như quả trứng
Bé viết mãi mà chẳng tròn.
- Tại mẹ trưa nay chiên trứng
Làm vỡ o tròn của con!”
(Mẹ và bé)
Cách đối đáp thơ trẻ như vậy cho thấy tác giả không chỉ viết “cho” thiếu nhi, mà “ở cùng” các em - về mặt cảm xúc, về mặt tưởng tượng và ngôn ngữ. Những hình ảnh như chuồn chuồn, bi lăn, trứng chiên, búp bê, mưa giăng, đôi dép nhựa... tất cả là ngôn ngữ của thế giới trẻ thơ, nhưng nhờ bàn tay nhà thơ, chúng thành thơ mà không mất sự giản dị vốn có.
Trong bài Bé chờ ba, chỉ vài khổ thơ ngắn, nhưng Phan Xuân Luật khắc họa cả một buổi chiều mưa - nỗi cô đơn của một đứa trẻ bị lãng quên giữa thành phố đông đúc, khi ba quá bận rộn, mẹ thì đã đi xa, bà thì già yếu. Vậy mà cuối bài, hình ảnh ba xuất hiện trong mưa, ôm con vào lòng, là đủ để người đọc thấy nỗi xúc động trào lên như chính mình vừa sống trong khoảnh khắc ấy.
Không chỉ viết về quê hương, người lính hay tuổi thơ, Phan Xuân Luật còn dành một phần đáng kể để tự sự về thân phận cá nhân giữa đời sống hiện đại. Những bài như Bạn bận, Thơ và nước đá, Phù vân, Có ta và..., Cho một ngày sinh, Không đề... là những lát cắt của một cái tôi từng trải, lặng lẽ quan sát thế sự, và đôi khi bật cười như một cách tự cứu mình khỏi sự cay đắng.
“Mình tặng thơ, bạn nhíu mày ba cái:
- Thơ thiếu “tăng cường”, “đẩy mạnh”, “cạnh tranh”…”
(Thơ và nước đá)
Thơ Phan Xuân Luật còn nhìn thẳng vào hiện thực hôm nay: làng đang đô thị hóa, người làng bị ép buộc “lên phường”, ruộng vườn hóa “dự án”, công dân nông dân trở thành “cư dân thành phố”. Nhưng điều đáng nói là dù hình hài có đổi thay, tinh thần làng vẫn còn nguyên trong họ.
“Làng lên phường đã gần chục năm
Mấy công ruộng vẫn một năm mấy vụ
Người làm ruộng vẫn thân cò lam lũ…”
Hay:
“Làng giữa phố mà chẳng mơ người phố
Trọn một đời vẫn cứ nông dân…”
Tiếng làng không phải bản tuyên ngôn, càng không phải công cụ “giao đãi” thời thượng. Đó là tiếng lòng của một người con xứ Nghệ - đã từng sống, từng đi xa, từng bươn chải, và từng quay về - bằng nỗi nhớ. Không phải ai xa quê cũng nhớ quê, và càng không phải ai nhớ quê cũng viết được như Phan Xuân Luật: nhớ bằng hình ảnh, bằng ngôn từ, bằng hơi thở lặng lẽ của văn hóa làng.
Đọc Tiếng làng, không chỉ là nghe tiếng quê hương vọng lại, mà còn là lắng nghe chính tiếng lòng mình - tiếng lòng tưởng đã lấm láp khuất lấp giữa phố xá, nay bỗng được gọi tên bằng thơ, bằng ký ức, bằng một niềm thủy chung son sắt.