193 là nói gọn về địa chỉ: 193 Trần Hưng Đạo, nơi đặt tòa soạn Báo Phú Yên đầu tiên, sau khi tỉnh tái lập, tháng 7/1989.
Đó là ngôi nhà hai tầng, mới được sơn phết lại nhưng cũng không có gì nổi bật trong dãy nhà mặt phố đồng dạng, ngoài tấm biển: Tòa soạn báo.
![]() |
Các phóng viên trẻ trước tòa soạn Báo Phú Yên ở 193 Trần Hưng Đạo. Ảnh: TL |
Tòa soạn thời gian khó
Khi ngấp nghé ở đấy với lá đơn xin việc, tôi có chút thất vọng với bộ dạng của nó, khi ngầm so sánh với ngôi biệt thự Tòa soạn Báo Phú Khánh 81 Yersin (Nha Trang), nơi từng đến nhận nhuận bút thời học cấp 3. Coi qua lá đơn, nhà báo Tô Phương, Tổng Biên tập lúc đó, nhìn tôi kiểu “xem mặt mà bắt hình dong”, rồi nói: “Cậu có chắc là viết báo được không? Tôi nhận thử việc cậu đã”. Tôi được nhận, vì lúc đó (tháng 7/1991, sau tách tỉnh 2 năm), tòa soạn đang thiếu người. Phòng phóng viên chỉ có ba anh cựu trào: Phạm Ngọc Phi (Trưởng phòng Phóng viên kiêm Trưởng phòng Hành chính), Nguyễn Mạnh Thường, Nguyễn Phi Công và ba phóng viên trẻ: Anh Kiệt, Mỹ Dung và Ánh Tuyết (vừa tốt nghiệp đại học ở Nga về, con gái của Tổng Biên tập Tô Phương). Ban bạn đọc có anh Phan Thanh Bình (phụ trách ban) và phóng viên tập sự Hoài Trung. Bộ phận Thư ký - Xuất bản, có chị Phạm Thị Hồng Chung biên tập tin bài cộng tác viên, anh Minh Ký phóng viên ảnh, anh Hữu Thọ vẽ maquette và em Tuyết đánh máy. Hành chính thì có chị Huỳnh Thị Nữ kế toán, em Ái My văn thư kiêm thủ quỹ và anh Trần Văn Thỏa lái xe. Văn phòng Hội Nhà báo Phú Yên cũng ở chung trong ngôi nhà này, có chị Ngân Hoa, cán bộ văn phòng hội. Sau đó, cơ quan tiếp nhận thêm: Kim Liên (nhân viên phụ trách bạn đọc) và Hà Thu (sửa bản in).
Nghe kể trước đó, còn có các anh: Hà Bình (Phó Tổng biên tập kiêm Giám đốc nhà in báo), Nguyễn Chính (Trưởng phòng Phóng viên), Trần Ngọc Quang (Thư ký Tòa soạn). Nhưng sau đó, vì hoàn cảnh gia đình các anh lần lượt đều chuyển sang các tờ báo khác và trở lại Nha Trang.
Bên trong cơ quan lúc bấy giờ, tầng một có chiếc bàn lớn dùng làm nơi tiếp khách, tiếp bạn đọc và cũng là nơi hội họp trao đổi công việc chung của tất cả các bộ phận. Ở phía sau có 1 phòng nhỏ cho kế toán và thủ quỹ. Trên tầng 2, là phòng Tổng Biên tập và phòng làm việc của bộ phận Thư ký - Xuất bản. Phương tiện đi công tác thì có 1 chiếc xe U- oát (Liên Xô sản xuất) và 2 chiếc xe máy. Báo xuất bản mỗi tuần 2 kỳ (thứ 3, thứ 6) 4 trang khổ như Báo Nhân Dân. Bản thảo phóng viên viết tay được đánh máy lại rồi chuyển sang nhà in xếp chữ chì. Hồi đó điện đóm rất xập xình, TX Tuy Hòa chưa được hòa vào mạng lưới điện quốc gia, còn xài điện từ nhà máy điện diezel. Những khi mất điện mấy ngày, thì số báo sau in chung luôn với số báo trước, nên khi phát hành chẳng còn giá trị thời sự gì. Mỗi lúc như vậy, nhìn tờ báo ra chậm, chúng tôi thật chạnh lòng.
Trụ sở tòa soạn chật hẹp nhưng bù lại nằm ngay trung tâm thị xã, nên cũng đỡ buồn. Tôi nhớ trong truyện ngắn “Chuyến về Tuy Hòa”, nhà văn Võ Hồng đã để nhân vật nhận xét:” Những thành phố nhỏ thường có một con đường chạy dài từ đầu trên xuống đầu dưới, y như cái cây lụi xiên qua mình một con gà đặt trên lò quay, xuyên qua một xâu thịt đặt trên lò nướng. Cái cây lụi của Tuy Hòa là đường Trần Hưng Đạo…”. Cái truyện này viết từ trước năm 1975, nhưng đến thời điểm đó vị thế đường Trần Hưng Đạo vẫn vậy. Chỉ có thay đổi là vai trò trung tâm thị xã từ ngã Năm (như mô tả trong truyện) đã dịch chuyển xuống ngã tư gần chợ và bến xe, mà thường gọi là “ngã tư Tân Tiến” ( chắc vì có hiệu thuốc Tân Tiến ở đó). Tuy nhiên, nhịp sống còn rất chậm và vắng vẻ. Hôm nào không có điện, mới 8h tối cả thị xã gần như nhà nào cũng đóng cửa, chúng tôi đạp xe rông rảo thấy trên đường Trần Hưng Đạo, chỉ có 2-3 chỗ leo lét ánh đèn dầu của những người bán trứng vịt lộn.
Có những buổi chiều tôi chờ anh Hoàng Chương (thầy giáo dạy văn cộng tác viên vừa được tuyển về, nhà vẫn còn ngoài La Hai) đi xe đò vào, để xuống BS Minh ở đường Nguyễn Huệ ăn gỏi gà, uống bia hơi, nói chuyện nghiệp vụ, xong về tòa soạn ngủ trên bàn làm việc. Mặc dù rất thiếu thốn, nhưng đó là những năm tháng mà ai cũng có niềm tin về những điều mới tốt đẹp rồi sẽ đến. Cũng như tin tỉnh mới rồi sẽ được xây dựng hiện đại hơn, giàu đẹp hơn.
Những ngày bão lụt
Sau khi tái lập, tỉnh Phú Yên còn nhiều khó khăn, vậy mà còn bị thiên tai dồn dập. Đáng kể nhất trận lũ lụt lịch sử, rồi tiếp sau đó là cơn bão lớn trong năm 1993. Trong trận lũ lụt, có hơn hai ngày đêm cả TX Tuy Hòa bị nhấn chìm trong nước. Nước lên nhanh đến mức, chúng tôi không kịp di chuyển đồ đạc gì từ tầng một lên tầng hai, ngoài chiếc két sắt, mà theo “lệnh” của Tổng Biên tập là bằng mọi giá phải khuân cho được lên cầu thang. Lúc mức nước cao nhất, ngoài đường Trần Hưng Đạo nước cao quá đầu người, trong toàn soạn nước đến ngang ngực. Bàn ghế, tủ hồ sơ và các phương tiện khác đều bị ngập.
Tôi cùng Trần Tĩnh (phóng viên mới, vừa tốt nghiệp khoa sử Đại học quốc gia Hà Nội) cùng hai chị em Ái My bị mắc kẹt lũ, phải lên tầng hai. Không có nước sạch để dùng, tôi mang can nhựa bơi qua đường, lúc đó đâu khác gì dòng sông, rồi leo lên sân thượng nhà dân xin nước mưa từ các hồ chứa trên đó. Lũ rút, khi tòa soạn còn ngập ngụa bùn đất, tất cả phóng viên tỏa đi lấy tin tức thiệt hại, theo những các đoàn công tác về vùng xa để làm phóng sự. Những tin bài, hình ảnh khi ấy vừa được sử dụng cho báo nhà, vừa được fax và mang ra bến xe gởi cho các tòa soạn báo lớn trong nước. Tin tức thiệt hại lan truyền khắp cả nước. Một cuộc cứu trợ chưa từng có khắp mọi miền hướng về Phú Yên. Đó cũng là lúc, ngôi nhà 193, tấp nập đón các đoàn cứu trợ từ TP. Hồ Chí Minh ra. Báo Phú Yên trở thành một cơ quan đầu mối của tỉnh trong tiếp nhận và cứu trợ thiên tai kể từ mùa bão lụt đó.
Cách sau trận lụt 1 tháng là cơn bão mạnh chưa từng có đổ bộ vào Phú Yên, hàng ngàn người dân phải lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”. Hai hàng xà cừ cổ thụ một thời làm nao lòng du khách trên đường Trần Hưng Đạo gần như bị xóa sổ. Ngôi nhà 193 trong bão không có thiệt hại vật chất gì đáng kể, nhưng phải gánh một thiệt hại vô cùng đau đớn. Đó là phóng viên Nguyễn Ánh Tuấn (nhà thơ trẻ, vừa tốt nghiệp Đại học Đà Lạt) vừa được nhận vào tòa soạn, bị mất vì tai nạn giao thông ngay sau bão. Từ Đà Lạt trước đó, Tuấn có những vần thơ về Tuy Hòa thật dạt dào: “Mai anh về khỏa nước sông trăng. Đón hoàng hôn nơi bến Đà Rằng. Tìm trong hương bưởi em gội tóc. Gọi cả tình quê đến bên lòng. Mai anh về, anh phải về thôi. Dẫu quê hương rát bỏng nắng trời. Miền đất đi xa thành nỗi nhớ. Tuy Hòa câu hát đọng bờ môi…”. Vậy mà khi đã về, đã được nhận vào cơ quan báo như mong ước, Tuấn lại ra đi để lại hoài bão tuổi trẻ mãi dở dang.
![]() |
Kỷ niệm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam ở 193 Trần Hưng Đạo. Ảnh: TL |
Trang “bắt heo”, giải Việt dã và ấn phẩm “Phú Yên cuối tháng”
Trong khó khăn nhưng có nhiều kỷ niệm vui. Vui nhất là làm trang “bắt heo” Trang báo đó, nói theo ngôn ngữ bây giờ là trang truyền thông, Tổng Biên tập gọi là trang “ba lợi ích” (lợi cho tuyên truyền chung, lợi cho đối tác được tuyên truyền và cuối cùng là lợi cho cơ quan báo), còn chúng tôi nói là “trang bắt heo” tức cứ làm một trang cho HTX sản xuất nông nghiệp, hay xã nào đó thì được đối tác cho một con heo. Số báo tất niên thường có 2-3 trang dạng này, để ngày cận tết bí mật tập kết về tòa soạn 2-3 con heo (bí mật vì sợ cơ quan khác biết phân bì, phần vì chẳng có nơi nào khác để tạm nhốt). Có lần anh Mạnh Thường (sau là Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp) thuê xe chở xe từ Hòa Định về, không biết thế nào giữa đường heo sẩy ra, anh phải nhờ địa phương huy động cả dân quân, thanh niên xung kích vây bắt lại mới được. Heo được làm thịt ngay trong cơ quan, rồi phân ra cho cán bộ nhân viên. Những năm khó khăn đó, nhà nào có một phần thịt heo như vậy là đã có một cái tết vui.
Dấu ấn của công tác xã hội tờ báo khởi xướng thời đó, sau trở thành niềm tự hào nhiều năm của Báo Phú Yên mà không báo địa phương nào có thể sánh được, là giải Việt dã. Giải được khai sinh ngày 23/10/1993, đúng ngay ngày mưa dầm dề khởi đầu cơn lụt lịch sử. Ở đợt chạy 7 km cuối cùng, nhiều đoạn VĐV phải lội nước trên đầu gối, dàn xe máy của trọng tài đội hình cắm cờ theo đoàn đua hầu hết bị chết máy ngay nơi nập sâu nhất trước chợ Tuy Hòa. Phát thưởng theo kiểu chạy lụt cho VĐV xong, từ đại biểu đến ban tổ chức giải, tới nhân viên đều cố cuốn gói chạy cho kịp về nhà. “Giải này có số nước nổi”, anh em cơ quan nói vui như vậy mà không ngờ nổi thật. Những năm tiếp theo, giải được sự hưởng ứng mạnh không ngờ, “hút” được nhiều nhà tài trợ từ TP Hồ Chí Minh, giải mở rộng thu hút hàng chục đoàn vận động viên miền Trung - Tây Nguyên, chỉ xếp sau giải Việt dã báo Tiền Phòng về quy mô. Nhiều lần chi đoàn báo đứng ra “thầu” khâu cổ động giải gây quỹ, phải leo trèo treo băn - rôn khắp các đường phố. Tòa soạn lúc này có thêm các phóng viên mới: Nguyên Lưu (tuyển chọn từ cộng tác viên), Tiên Minh (từ Đại học Đà Lạt), Tấn Lộc (từ Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh) tạo nên những mũi nhọn tác nghiệp và khi thế mới cho hoạt động cơ quan. Chiếc xe U oát được gắn loa đi cổ động cho giải. Từ chiếc loa, giọng đọc của Tiên Minh và Ái My phát ra khắp các đường phố Tuy Hòa.
193 cũng là nơi hình thành những ý tưởng cải tiến đột phá cho tờ báo, mà khởi đầu là ấn phẩm Phú Yên cuối tháng. Anh Phạm Ngọc Phi sau khi được đề bạt làm Phó Tổng biên tập đã đề xuất xuất bản ấn phẩm Phú Yên cuối tháng phát hành ở cả TP Hồ Chí Minh. Đó là thời kỳ báo nhiều địa phương cùng “tiến về Sài Gòn” với các ấn phẩm phụ, như: Ấp Bắc chủ nhật, Ấp Bắc phụ nữ, Long An cuối tuần, VTD Vũng Tàu, báo ảnh Đất Mũi, các ấn phẩm phụ của các báo Sông Bé,… Tháng 7/1994, số Phú Yên cuối tháng đầu tiên xuất bản khổ A4, bìa in 4 màu, có các trang quảng cáo, nội dung 32 trang, với phương châm tự chủ tài chính: lấy quảng cáo phát hành nuôi nội dung, được bạn đọc nồng nhiệt đón nhận, đã tạo ra luồng sinh khí mạnh mẽ cho tòa soạn. Những số tiếp theo, tòa soạn hình thành đội ngũ cộng tác viên thường xuyên, có: kỹ sư Đào Tấn Lộc (lúc đó là Giám đốc Sở KH&CN), nhà thơ Trần Huiền Ân, bác sĩ Đoàn Văn Hải, nhà báo Bích Tuyền, nhà báo Phan Hoàng, thạc sĩ Trần Lăng… tổ chức được nội dung đa dạng, hữu ích cho bạn đọc. Dù phương án tự chủ và phát hành ở TP Hồ Chí Minh không thành công, nhưng ấn phẩm Phú Yên cuối tháng là một thành công lớn trong mô hình thực nghiệm đầu tiên, để hình thành tờ Phú Yên cuối tuần và cải tiến báo khổ lớn thành 12 trang khổ nhỏ, từng bước tăng kỳ thành nhật báo sau này.
*
* *
“Ngôi nhà 193” tồn tại chỉ 7 năm (từ năm 1989 đến 1996) trong bề dày 36 năm của Báo Phú Yên (tính từ ngày tỉnh tái lập) nhưng là luôn lưu giữ những cột mốc quan trọng của tờ báo thuở ban đầu (sau tòa soạn được xây dựng to đẹp hơn ở 62 Lê Duẩn). Có lẽ tôi và các anh chị em có một thời ở ngôi nhà ấy, mỗi lần qua đó đều không thể không ngoái lại, như là một cử chỉ thay lời chào dành cho người thân quý cũ.
Với những phóng viên trẻ chúng tôi ngày ấy, cái chớp mắt hơn 30 năm qua, đã biến những cậu sinh viên lơ ngớ trước 193 năm nào thành những lão U60, nhưng không thể biến mất tháng ngày hào hiệp trẻ trung mà chúng tôi từng có ở đó. 193- những ngày, chưa bao giờ xa…