Hoa Lư là kinh đô đầu tiên nước ta thời phong kiến do Đinh Tiên Hoàng tạo lập. Hoa Lư vừa trở thành thành phố vào tháng 1/2025, hướng tới “Đô thị di sản thiên niên kỷ” phát triển du lịch - dịch vụ dựa trên nền tảng giá trị văn hóa - lịch sử, trong đó có Dục Thúy sơn - ngọn núi do danh nhân Trương Hán Siêu đặt tên và khắc thạch bài thơ đầu tiên.
Một bảo tàng thơ độc đáo
![]() |
Tượng danh nhân Trương Hán Siêu trong đền thờ ông dưới chân núi Non Nước. Ảnh: CTV |
So với núi Nhạn của Tuy Hòa thì núi Non Nước của Hoa Lư (Ninh Bình) nhỏ hơn, thấp hơn nhưng có những nét tương đồng. Cả hai ngọn núi xưa kia trấn ở cửa biển, nay đều nằm trong lòng thành phố sát bên sông và gắn liền với thi ca. Nếu như núi Nhạn có tháp cổ đã và tiếp tục “thắp lửa” cho thơ thì núi Non Nước là cả một “bảo tàng thơ” khắc thạch, mà Dục Thúy sơn của Trương Hán Siêu là bài thơ được khắc đầu tiên trên vách đá đỉnh núi:
“Sơn sắc thượng y y,
Du nhân hồ bất quy?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt,
Nhàn danh ngộ tạc phi.
Ngũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng cựu ngư ky”
Nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp dịch thơ:
“Non xanh xanh vẫn như xưa
Du nhân đi mãi vẫn chưa thấy về?
Sóng in bóng tháp bồ đề,
Mở toang cửa động liền kề chân mây,
Đời lênh đênh trước khác nay,
Thân nhân mới biết trước ngày lầm to.
Mênh mông trời đất Năm hồ
Vòm câu cũ, kíp thăm dò nơi đâu”.
Bài thơ Dục Thúy sơn là một trong những điểm nhấn của đêm thơ Nguyên tiêu Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 23 ở Hoa Lư. Cả phần tiếng Hán và tiếng Việt qua giọng ngâm truyền cảm của Nghệ sĩ Nhân dân Mai Thủy đã âm vang cuốn hút khán trường.
“Dục” tiếng Hán trong bài thơ có nghĩa là tắm, “thúy” là con chim trả. Núi Non Nước trong đôi mắt thi sĩ giàu sức liên tưởng của Trương Hán Siêu giống như con chim trả màu xanh biếc đang nghiêng mình tắm giữa cửa biển với “Mênh mông trời đất Năm hồ”. Tên bài thơ của họ Trương cũng trở thành tên ngọn núi do ông khám phá đầu tiên vào thế kỷ XIII thời nhà Trần.
Kể từ khi bài Dục Thúy sơn của Trương Hán Siêu được khắc vào vách đá đầu tiên trên đỉnh núi thì lần lượt có hơn 100 bài thơ, văn, phú khác của các tao nhân mặc khách từ khắp nơi về đây cao hứng viết nên, trong đó có hơn 40 bài cũng được khắc thạch, biến Non Nước thành ngọn núi thơ độc đáo hiếm có, ghi dấu những tên tuổi như: Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Nguyễn Huy Oánh, Ngô Thì Sỹ, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Nguyễn Du, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Phạm Văn Nghị, Tản Đà...
Ngoài hai bài Dục Thúy Sơn khắc thạch và Bạch Đằng giang phú, Trương Hán Siêu còn để lại các bài thơ: Cúc hoa bách vịnh, Hóa Châu tác (Thơ làm ở Hóa Châu), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống) và 2 bài văn xuôi Khai Nghiêm tự bi ký (Văn bia chùa Khai Nghiêm) và Dục Thúy sơn linh tế tháp ký (Bài ký tháp linh tế núi Dục Thúy). Ngoài ra, ông còn có hai quyển Hoàng triều đại điển và Hình thư soạn chung với Nguyễn Trung Ngạn, bài biểu Tạ trừ Hàn lâm viện trực học sĩ được dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư và Kiến văn tiểu lục nhưng hiện chưa tìm thấy.
Núi Non Nước nằm ở phía đông bắc TP Hoa Lư, ngay ở ngã ba sông Đáy và sông Vân, gần quốc lộ 1 và quốc lộ 10. Từng nhiều lần leo 72 bậc đá lên đỉnh núi ngắm cảnh đọc thơ, nhưng buổi chiều Nguyên tiêu Ất Tỵ 2025 với tôi cảm giác thật kỳ lạ. Như nghe đâu đây, bước chân, giọng nói, tiếng thơ của Trương Hán Siêu và bao bậc tiền nhân khác vọng về, đặc biệt là danh nhân Nguyễn Trãi thời nhà Hậu Lê với bài thơ cũng có tên Dục Thúy sơn cảm nhớ Trương Thiếu Bảo, tức Trương Hán Siêu:
“Hải khẩu hữu tiên san,
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thủy thượng,
Tiên cảnh trụy nhân gian.
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban”
Nhà thơ Khương Hữu Dụng dịch:
“Cửa biển có non tiên,
Từng qua lại mấy phen.
Cánh tiên rơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen.
Bóng tháp hình trâm ngọc;
Gương sông ánh tóc huyền.
Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo
Bia khắc dấu rêu hoen”.
![]() |
Bài thơ Dục Thúy Sơn của Trương Hán Siêu khắc thạch trên núi Non Nước. Ảnh: CTV |
Một nhà văn hóa lớn
Tư liệu lịch sử cho thấy Trương Hán Siêu cùng với Nguyễn Trung Ngạn là hai vị quan nổi tiếng thời nhà Trần hiếm hoi sống trên 80 tuổi. Năm mất của ông từ lâu xác định là 1354, nhưng năm sinh thì mãi đến gần đây qua các công trình nghiên cứu mới dự đoán khoảng 1274. Quê ông ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên, nay là phường Vân Giang, TP Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Tên tự của ông là Thăng Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu, làm quan trải 4 đời vua nhà Trần.
Thời trẻ Trương Hán Siêu là môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Trường Yên. Có ý kiến cho rằng ông là danh tướng, mưu sĩ có nhiều công lao trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Thực tế trong hai cuộc chiến tranh, lần thứ hai vào năm 1285 và lần thứ ba vào năm 1287, thì ông còn rất trẻ, có chăng chỉ giúp một số việc văn thư cho vị thống soái. Ông chưa thể trở thành danh tướng mưu lược chỉ huy binh sĩ xông pha trận mạc. Có chăng hậu thế vì quá yêu mến mà suy diễn gán ghép cho tiền nhân.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời năm 1300 đã tiến cử Trương Hán Siêu cho triều đình, nhưng mãi đến năm 1308 ông mới được vua Trần Anh Tông bổ làm Hàn lâm học sĩ. Từ đó, qua các đời vua Trần, ông giữ chức Hành khiển, rồi Tham tri chính sự. Từng giữ các chức: Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung, Thượng thư và sau khi mất ông được 2 vua Trần truy tặng chức Thái bảo rồi Thái phó. Có thể nói sự nghiệp Trương Hán Siêu chủ yếu gắn liền với việc xây dựng, phát triển đất nước trải bốn đời vua Trần, được triều đình hết mực kính trọng, như sách Đại Việt sử ký toàn thư có viết: “Nhà vua chỉ gọi ông là thầy chứ không gọi tên”.
Là người có học vấn sâu rộng, chính trực, phản bác mê tín dị đoan, cùng với chính sự thì Trương Hán Siêu còn có những đóng góp quan trọng về văn hóa, mà nổi bật là những áng văn chương lưu lại hậu thế. Ngoài bài Dục Thúy sơn, ông còn là tác giả một số tác phẩm khác, đặc biệt là kiệt tác Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) trữ tình và đầy hào khí, với tâm thế một lữ khách lãng du đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên kỳ diệu và dòng lịch sử oanh liệt: “Giương buồm giong gió chơi vơi/ Lướt bể chơi trăng mải miết/ Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương/ Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt/ Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/ Nơi có người đi đâu mà chẳng biết/ Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều/ Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Rồi một ngày lữ khách đã lướt sóng chu du “Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều/ Đến sông Bạch Đằng bồng bềnh mái chèo/ Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời: một sắc/ Phong cảnh: ba thu”.
Và tại dòng sông lịch sử Bạch Đằng, những câu chuyện hào hùng “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã”, “Ngô chúa phá Hoằng Thao” được sống lại thật sinh động dưới ngòi bút tài tình của Trương Hán Siêu, ngỡ như những trận chiến xa xưa đang diễn ra trước mắt: “Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối/ Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi!/ Thế nhưng: Trời cũng chiều người/ Hung đồ hết lối!/ Khác nào như khi xưa:/ Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay/ Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi”.
Bạch Đằng giang phú khép lại bằng hai câu xúc động mang triết lý sâu xa và tầm nhìn lịch sử sâu rộng của một nhà văn hóa lớn:
“Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.