Tháng Giêng 1949, Hòa Xuân tổ chức bầu cử HĐND khóa 2. Đồng bào tản cư ở vùng tự do, cũng như đồng bào ở trong vùng địch kiểm soát cũng tìm cách đi bầu, cuộc bầu cử đã đạt kết quả thắng lợi. Đến tháng 5/1949, ta tổ chức Đại hội nhân dân tại thôn Phú Thứ (còn gọi là khuyếch đại hội nghị), hàng ngàn đồng bào Hòa Xuân đã đến tham dự đại hội, Trung đoàn 80 đã góp vui văn nghệ trong đại hội, phát động tinh thần nhân dân. Đại hội đã báo cáo thành tích qua 3 năm kháng chiến, cũng như phương hướng kháng chiến mà nhân dân Hòa Xuân tiếp tục thực hiện.
Đồng chí Lê Đức Tân, Chính trị viên Xã đội Hòa Xuân trong kháng chiến chống Pháp (trái) và đồng chí Trần Quang Hiệu, Chính trị viên Xã đội Hòa Xuân trong kháng chiến chống Pháp (phải) |
Trước đó, trong tháng 3/1949, giặc Pháp xuống gặt cướp lúa ở Phước Giang, du kích tập trung phối hợp với bộ đội chủ lực phục kích tại Gò Đình giết một tên quan hai Pháp, giặc Pháp phải rút chạy. Ta đặt vấn đề là có tai mắt tình báo của địch. Chi ủy họp và chủ trương “Phát động quần chúng tìm manh mối của gián điệp, cắt tai mắt tay chân của giặc Pháp”.
Tháng 7/1949, được sự giúp đỡ của nhân dân Nam Bình, ta đã tóm gọn 127 tên gián điệp do địch cài cắm từ Nam Bình xuống các thôn. Ta mở tòa án quân sự tại Phú Lương (Hòa Tân) để xử tử, số còn lại ta đưa đi cải tạo giáo dục. Bọn gián điệp này lấy tin tức của cả Khu 5 cung cấp cho đồn Hiềm. Sau khi bọn chúng bị diệt, giặc Pháp nằm im trong đồn, chúng không còn càn quét như trước.
Phát huy những thắng lợi đạt được của lực lượng vũ trang, tháng 8/1949, Đại hội lực lượng vũ trang tổ chức tại xã Hòa Tân. Một tháng sau, tháng 9/1949, Đại hội Đảng được triệu tập tại thôn Phú Hiệp (Hòa Hiệp) với 700 đảng viên tham dự, đại hội tổng kết những thành tựu các năm qua, báo cáo công tác xây dựng Đảng và công tác thời gian đến. Lực lượng dân quân du kích hầu hết được kết nạp Đảng do đã kinh qua thử thách trong chiến đấu trực tiếp với giặc Pháp.
Tính đến tháng 3/1950, số đảng viên của chi bộ lên đến 900 người. Phát triển mạnh nhất vào 6 tháng cuối năm 1949 và 3 tháng đầu năm 1950. Để đáp ứng tình hình mới, tháng 9/1950, Đảng quyết định tạm ngừng phát triển để củng cố. Tháng 6/1949, đồng chí Bùi Cương được Tỉnh ủy điều động về công tác ở tỉnh. Đồng chí Đặng Văn Cang làm Bí thư xã Hòa Xuân. Một thời gian ngắn, đồng chí Đặng Văn Cang được rút về huyện, đồng chí Trần Mẫn được cử làm Bí thư chi bộ xã.
Trong tháng 11/1949, du kích Hòa Xuân phối hợp với quân chủ lực Tiểu đoàn 365 đánh tiêu diệt một trung đội công binh Pháp tại xóm Quán (Phú Khê). Tình hình mới đặt ra cho Đảng và nhân dân ta nhiều vấn đề giải quyết, ta tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác vùng lưng địch và chiến tranh du kích. Nhân dân hăng hái đóng góp lúa gạo, tiền bạc cho kháng chiến.
Thực hiện khẩu hiệu kinh tế tự cấp tự túc, nhân dân ra sức phấn đấu đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của đời sống và kháng chiến. Trong giai đoạn này, Quân khu 5 bố trí Tiểu đoàn 365 (do đồng chí Hà Vi Tùng chỉ huy) về án ngữ phía bắc sông Bàn Thạch và hỗ trợ cho Hòa Xuân xây dựng lực lượng. Do yêu cầu phát triển lực lượng, tỉnh chỉ đạo Hòa Xuân thành lập trung đội du kích tập trung thứ ba do đồng chí Ngô Công Tú làm Trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Tương làm Trung đội phó, đồng chí Nguyễn Mã làm Chính trị viên…
Từ 3 trung đội, Hòa Xuân thành lập đại đội du kích tập trung. Đại đội du kích tập trung xã được Tỉnh đội cung cấp quân nhu, quân trang, quân dụng… Đại đội tập trung có 5 đội: 3 trung đội chiến đấu, 1 trung đội bám sát, 1 trung đội sản xuất, quân số trên 170 người. 3 trung đội chiến đấu được trang bị 3 tiểu liên Mác Anh, 1 cac-bin, 1 mi-xip, còn lại là súng trường Mút-cơ-tông, Inđôchinoa…
Lúc này đồng chí Phan Tiên Nam được điều động về Huyện đội Tuy Hòa. Đồng chí Lê Đức Lang điều động về Đại đội 377, đồng chí Võ Tấn Long làm Xã đội trưởng thay đồng chí Phan Tiên Nam. Đồng chí Trần Quang Hiệu thay đồng chí Lê Đức Lang làm Chính trị viên Xã đội Hòa Xuân.
Ban chỉ huy đại đội du kích tập trung được thành lập, đồng chí Lê Đức Tân, Xã đội phó kiêm Đại đội trưởng, Trần Quang Hiệu - Chính trị viên xã đội kiêm Chính trị viên đại đội, Đoàn Tuấn - Đại đội phó. Đại đội du kích tập trung phối hợp với Đại đội chủ lực 224 và bộ đội địa phương 377 đánh địch liên tục ở đèo Cả, phục kích cầu Sông Mới, Sông Ván… làm cho địch mất ăn mất ngủ.
Ngoài lực lượng tập trung nói trên, toàn xã có 5 trung đội dân quân thường trực thực hiện phương châm “Động binh tịnh dân”. Trung đội Bàn Nham nằm ở Đồng Nẩy sản xuất, khi cần thì chiến đấu. Cụ lão tại Phước Giang, Lạc Long và Nam Bình cũng thành lập 2 trung đội Bạch đầu quân để vận động lương thực, phục vụ chiến đấu.
Nông dân, phụ nữ, thiếu nhi cũng làm nhiệm vụ của người chiến sĩ: tiếp vận, báo tin, liên lạc. Cả xã thực hiện câu “Toàn dân là chiến sĩ”. Mỗi đoàn thể đều có tổ chức phục vụ chiến đấu như Bạch đầu quân, Thiếu niên quân, Nữ dân quân…
Trong phong trào nhân dân du kích chiến tranh, cụ Đỗ Châu được phong chiến sĩ thi đua của Liên Khu 5; Tiểu đội trưởng du kích Trương Hạng có phát minh vũ khí thô sơ phóng mảnh chai đánh địch; anh Lê Bai dùng lựu đạn đánh trả, thoát khỏi vòng vây địch ở chợ Xéo; du kích Lê Tấn dũng cảm dùng lựu đạn đánh vào phòng phát cạc cũng được bầu là chiến sĩ thi đua của liên khu. Nhiều tấm gương sáng về sự đóng góp nhân tài, vật lực cho kháng chiến được Đảng và nhân dân vô cùng kính trọng và biết ơn. Cụ Nguyễn Lân đã dốc trọn 150 thúng lúa dự trữ của gia đình đóng góp cho kháng chiến.
Mẹ Phan Thị Thao nuôi bộ đội trong nhà năm này sang năm khác. Bà Trương Thị Thanh cung cấp lương thực, thực phẩm, các mẹ, các chị thay nhau ngày đêm xay lúa, giã gạo phục vụ bộ đội. Gia đình cụ Lê Thám ở Lạc Long nhiệt tình nuôi dưỡng cán bộ, du kích, bộ đội trước và sau các trận đánh ở đèo Cả. Cụ Lê Thám và gia đình được bộ đội, du kích cán bộ coi như người thân ruột thịt.
Tháng 4/1950, ta phục kích địch đi lấy nước ở Hóc Lựu diệt được 3 tên lính Pháp. Phối hợp với chiến trường chính, Chi bộ Hòa Xuân xây dựng làng chiến đấu, bố phòng sát địch. Đảng, chính quyền Hòa Xuân đã huy động nhân dân trong toàn xã mang gạo tập trung về Nam Bình (có dân công Hòa Tân, Hòa Vinh yểm trợ), đào giao thông hào sâu, lót sạp, đổ đất lên trên, lập trận địa hầm ngầm từ Thạch Chẩm lên Tuy Bình để chống địch.
Với trận địa hầm ngầm, ta đã đánh bại trận càn của giặc Pháp lên Nam Bình, trong trận càn này giặc Pháp có 2 đại đội (gồm bọn lính Âu Phi) chúng được trang bị moóc-chê tay và trung liên. Ta có 2 đại đội địa phương của huyện và lực lượng tập trung của xã. Giặc Pháp chia làm ba hướng càn lên, một cánh đi theo đường núi, một cánh đi theo đường sông, và một cánh băng đồng.
Phía ta có giao thông hào ngầm từ Thạch Chẩm đến Tuy Bình. Ta chặn đánh địch tại Gò Mã, Nam Bình, đập tan được trận càn của địch, giặc Pháp bị diệt 29 tên. Sau trận càn Nam Bình, giặc Pháp tập trung cố thủ tại núi Hiềm.
Ngoài việc tấn công trực diện bằng lực lượng vũ trang, diệt tề điệp, cắt đứt nguồn tin tức của giặc Pháp, ta còn tổ chức mạng lưới điệp báo để nắm tình hình của giặc Pháp, xây dựng nữ chiến sĩ điệp báo Trương Thị Thanh, Nguyễn Thị Đào, Đoàn Thị Chế vào đồn Hiềm nhận làm vợ hờ cho bọn sĩ quan Pháp để thu thập tin tức quân sự cung cấp cho kháng chiến.
Chị Thanh, chị Đào, chị Chế vì nhiệm vụ cách mạng đã hy sinh tuổi thanh xuân và âm thầm chịu đựng những dư luận không hay. Chị Thanh đã cung cấp nhiều thông tin rất có giá trị cho cách mạng. Chị Đào đã mưu trí dũng cảm diệt một tên quan hai Pháp. Giặc Pháp phát hiện hai chị là người của ta, chúng tàn sát rất dã man. Liệt sĩ Trương Thị Thanh, Nguyễn Thị Đào, Đoàn Thị Chế ngã xuống tại quê hương giữa tuổi thanh xuân, để lại một tấm gương trong sáng về tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
Người thiếu niên anh dũng Nguyễn Danh 15 tuổi đã trở thành chiến sĩ quân báo của Trung đoàn 80, qua trung gian của một lính ngụy Pháp, anh vào tận đồn Hiềm tìm hiểu tình hình giặc Pháp, bị một tên tề phát hiện, Nguyễn Danh bị giặc Pháp tra tấn dã man, không khai thác được gì, chúng đã giết anh bên núi Hiềm. Người chiến sĩ tình báo tên Được ở Ấp Bắc, Thạch Tuân được ta cài vào làm việc cho giặc Pháp, ông đã vận động được một số tên giặc người Y Pha Nho ra hàng.
Khi bị lộ, giặc Pháp tra tấn, ông chửi vào mặt kẻ thù: “Chúng bay là quân cướp nước tàn bạo, đối với tao thà chết chứ không khai báo gì cho bọn mày”. Giặc Pháp đốt từng ngón tay ông, đốt râu tóc ông, mổ ruột ông để khủng bố nhân dân. Ta còn cài cả người vào làm thông ngôn cho giặc Pháp để thu tin tức.
Qua công tác địch vận của ta, nhiều lính ngụy ở đồn Hiềm đã bỏ đồn về với gia đình, nhân dân. Vừa tiến hành công tác địch vận, ta còn dùng kế ly gián để nội bộ địch nghi ngờ, xâu xé lẫn nhau. Ngày 10/9/1950, bọn Pháp ở đồn Hiềm tịch thu tài sản và bắn chết tên chánh tổng Thủ.
Để cô lập địch, ta vận động đồng bào Hoa kiều ở xóm Quán và xóm Mới (thôn Phú Khê) sát đồn Hiềm tản cư ra vùng tự do. Hai cụm dân này không còn, chợ núi Hiềm không còn hoạt động. Âm mưu dồn dân lập ấp của giặc Pháp bị phá sản toàn bộ.
Tình hình các chiến trường ở Tây Nguyên, Nam Bộ đều có chuyển biến thuận lợi. Bộ đội ta đánh mạnh, giáng cho địch nhiều tổn thất.
Ở mặt trận Hòa Xuân, ta chủ động đánh địch nhiều mặt, Tiểu đoàn 365 án ngữ phía bắc sông Bàn Thạch, phối hợp thống nhất chỉ huy các lực lượng dân quân, du kích. Bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực phân công tấn công địch ở núi Hiềm và trên đèo Cả.
Các lực lượng thay nhau tổ chức ba đêm đánh quấy rối địch, cắt dây điện thoại, ban ngày chúng ra khỏi đồn bị du kích bắn tỉa, chúng tổ chức đi lấy nước đều bị du kích bắn tỉa.
Ổ gián điệp của giặc Pháp ở Nam Bình bị ta phá tan tận gốc, mọi tin tức về tình báo phía bắc sông Bàn Thạch đến vùng tự do của ta đều bị cắt đứt, giặc Pháp không còn tai mắt.
Bị tấn công dồn dập và bị bao vây chia cắt, không còn liên lạc với cấp trên ở Khánh Hòa, bọn giặc Pháp ở núi Hiềm mất phương hướng, hoang mang dao động, suy sụp rệu rã nhanh chóng và khiếp sợ trước tình hình bị cô lập và bị bao vây tứ phía. Hòng cứu vãn tình thế và tránh nguy cơ bị tiêu diệt, giặc Pháp ở núi Hiềm Hòa Xuân phải vội vã tháo chạy hoảng loạn vào Khánh Hòa ngày 5/12/1950.
THÀNH NAM