Mùa cạn – Ảnh: HIẾU NGỌC |
Cuộc thi Truyện ngắn lần thứ VIII (3/2006 – 3/2007) của tuần báo Văn Nghệ ngay từ lúc mở đầu đã được dư luận chú ý. Chúng tôi, những người tổ chức cuộc thi đã nhằm vào những tác phẩm khá có sẵn trên bàn biên tập trước đó và thuyết phục tác giả tham gia mở màn. Người nông dân nhỏ bé của Hoàng Thế Sinh (ở Yên Bái) là một trong những tác phẩm như vậy. Truyện viết về một người nông dân lầm lũi đi kiện, thân gầy xác ve nhưng “ý chí đòi lại công bằng” thì cao và nặng như quả núi. Truyện kết thúc xót xa, qua đó ta thấy hiện thực đời sống dậy lên một cách oi ngột như những khi trời hứa mưa mà mãi vẫn không thấy có giọt mưa nào. Truyện vừa in xong, đã có liền mấy bài hồi âm hào hứng của các nhà phê bình, của bạn văn, và của cả những độc giả xa xôi, khuất nẻo.
Mấy tuần sau, chúng tôi nhận được 2 truyện dự thi của nhà văn Y Ban, trong đó I am đàn bà đề cập đến thân phận não nề của một phụ nữ nông thôn đi làm ôsin ở Đài Loan. Dữ dội, xót xa, nhân hậu, truyện vừa dày chữ nghĩa lại vừa đậm nhân vật nên khả năng “gọi bài” của loại truyện về nông thôn và người nông dân rất mạnh. Từ Phú Yên, Ngô Phan Lưu xuất hiện liên tục và chúng tôi cho in lần lượt 3 chùm gồm 6 truyện trong đó có Buổi sáng biến mất và Cơm chiều được chọn vào giải. Ngô Phan Lưu không viết điều gì cao xa mà chỉ là những chuyện loanh quanh về những gia đình nông dân lấm láp của khí hậu và đất đai Trung bộ khắc nghiệt điển hình. Mỗi truyện một góc độ, như một vết đẽo của nhà điêu khắc, cả mảng truyện của Ngô Phan Lưu cho thấy một chân dung người nông dân không đi kiện không đi làm thuê mà trụ lại, vật vã, rên xiết dưới sức ì của chính mình trong sự đổ vỡ của bối cảnh.
Chừng như vệt truyện về đề tài này đã gây nên cao trào phấn khích cho người viết, như một thứ cảm hứng dây chuyền. Nguyễn Việt Tùng (tức nhà văn Anh Động) từ Rạch Giá gửi ra truyện Xóm Mười Lăm, một quần thể dân cư có thể đếm bằng lóng tay nhưng cũng mang trong nó đủ những bi kịch của thời cuộc, ví như chuyện mấy “ông” chính quyền muốn đổi tên xóm, chuyện cư dân cũ cư dân mới, chuyện quá khứ địch và ta, chuyện đùm bọc hay xua đuổi nhau và chuyện đàn ông đàn bà, ý nhị, sắc nét, hóm hỉnh, một nông thôn có vui có buồn, nhiều chuyện cười ra nước mắt. Hay như chuyện Con sáo của Nguyễn Tấn Phong (Cần Thơ), một truyện về di họa chiến tranh ở nông thôn và đó cũng là một trong những bi kịch mà chỉ có người nông dân mới thấm hết vì họ phải vật lộn tại chỗ với nó mà không thể bày tỏ cùng ai. Hay như Ngàn năm sóng hát của Nguyễn Toàn (Kon Tum), không gian truyện là một làng biển bắt đầu từ những ngày có nhiều người di tản không thành cho đến khi một thế hệ khác nữa lớn lên, nhưng những người nông dân vạn chài ấy vẫn không thoát khỏi bi kịch của vùng nước quẩn. Gần cuối cuộc thi, truyện Đất của nhà văn trẻ Nguyễn Danh Lam như một cái chấm hết hào sảng, tái hiện cảnh di dân của cả một làng Bắc bộ mà phía trước là Tây Nguyên vừa mỡ màu vừa khốc liệt, một truyện ngắn công phu, vạm vỡ và bế tắc, như chính mâu thuẫn của khát vọng và hiện tại ở nông thôn ta.
Một đất nước có hai phần ba dân số là nông dân và một không gian văn hóa nông thôn đang bị thách thức trước biến động của đô thị hóa và công nghiệp hóa, thiết nghĩ, hình ảnh người nông dân mờ nhạt và thưa thớt trong văn học mới là điều lạ. Mỗi nhà văn Việt
DẠ NGÂN