Ấy là một hình ảnh vô cùng quen thuộc của làng quê xưa. Mỗi nhà tối thiểu một trụ, một cây. Thi thoảng, có nhà còn có đến hai hoặc ba cây, bởi ngoài cây cần vọt chính (ngự nơi giếng nước) còn có thêm vài ba cây cần vọt phụ chồm chỗm ngỏng cổ cạnh bờ ao, bờ rạch hoặc bờ mương. Lũ cần vọt ấy làm nhiệm vụ tưới tắm cho cây cối. Ngoài đồng, tại những chân ruộng cao, đôi khi cũng có cần vọt, nhưng thường thì ít thấy, bởi giữa đồng trống người quê ưa tát nước bằng gàu dây (gàu dai) hơn.
![]() |
Hình ảnh cây cần vọt trên sân khấu - Ảnh: HIẾU NGỌC
|
Cần vọt là gì? Tên của vật dụng này thuộc loại hình dung từ tuyệt đối chính xác: ấy là cây cần (giống cần câu, có điều “cần câu” này to ơi là to) dùng để vọt nước, thực chất là đưa nước từ giếng, từ ao lên. Nhưng không phải đưa bằng kiểu múc, xách thông thường như khi sử dụng gàu dây; nước được vọt từ thấp lên cao dựa theo nguyên tắc đòn bẩy. Cứ nhìn kỹ một trụ cần vọt đang hoạt động khắc biết: cánh tay đòn chính là cần bẩy, điểm tựa là hai trụ cần vọt. Vật nặng buộc đằng sau đuôi là lực bẩy, có tác dụng nâng vật nặng (gồm cần vọt và gàu nước) từ dưới giếng lên. Còn cần vọt? Ấy là công cụ biến đổi phương của lực kéo, lực nâng sao cho gàu được đưa xuống, kéo lên luôn theo đường thẳng, tránh va chạm vào bờ ao, thành giếng. Hơn thế, cần vọt còn giúp người mang nước đi xa hơn (trong bán kính vài ba mét quanh giếng) một khi gàu được kéo lên khỏi giếng mà không tốn nhiều sức. Tác dụng ấy có sự góp phần đắc lực của sợi dây nối giữa cần vọt và cần bẩy.
Muốn làm cần vọt, đầu tiên người ta phải nhắm nhe địa thế, chọn chỗ thích hợp nhất mà chôn trụ. Chỗ ấy phải vừa tầm, không được quá gần hoặc quá xa miệng giếng (gần quá xách bị nặng, bị “tức”; xa quá thì gàu dễ đụng thành giếng, thành ao). Trụ thường là hai hoặc bốn gốc tre đực già chôn sâu song song, đầu trên có xỏ lỗ để đóng chốt sắt ngang. Khoảng trống giữa hai trụ phải vừa đủ rộng để cần bẩy tự do di chuyển xuống - lên. Cần bẩy được làm bằng nguyên thân tre cái già to, hơi cong để chịu tốt lực uốn. Tại vị trí chọn làm điểm tựa trên thân cần bẩy, người ta dùng dùi sắt nướng đỏ xoi lỗ vừa khít cho cây chốt sắt (ăn vào hai trụ) xuyên qua được. Cái điểm tựa ấy phải được tính toán sao cho khi cần bẩy gục xuống hết cỡ thì đầu cần đến đúng ngay tâm miệng giếng; còn khi cần bật lên hết cỡ, thì đuôi cần vẫn chưa đụng đất. Dài thì vướng, nhưng nếu đuôi cần ngắn quá, lực nâng không đủ, xách nước sẽ rất nặng. Làm không trôi, phải chỉnh sửa dăm ba bận là chuyện thường. Khi đâu đó đã sẵn sàng, người ta tiến hành lắp cần bẩy vào trụ: đưa cần bẩy vào giữa hai trụ, dùng cây chốt sắt tròn đã chuẩn bị trước đóng ngang qua trụ thứ nhất, chui qua điểm tựa trên cần bẩy, sau đó chui tiếp vào lỗ trụ thứ hai. Cân đối, cố định hai đầu chốt sắt không để bị tuột ra. Lúc này, cần bẩy phải có khả năng quay tròn lên xuống xung quanh cây chốt sắt. Chuẩn bị sẵn vài ba vật nặng mà buộc dính sau đuôi cần bẩy, nâng lên thả xuống thử vài lần, nếu thấy hoạt động trơn tru, không bị rung chao, dính mắc ở đâu là được.
Tìm cần vọt thì đơn giản hơn, chỉ cần chọn cây tre đực nào thân thon thả, thẳng thớm, dài tương đương độ sâu của giếng. Đầu gốc cần vọt cũng dùng dùi sắt nướng xoi ngang hai lỗ nhỏ để xỏ chốt mắc gàu xách nước. Đầu ngọn được nối thẳng vào đầu ngọn cần bẩy bằng một đoạn dây thừng chắc chắn. Mắc gàu vào cần vọt, thả lên níu xuống vài tua xem cần di chuyển hoàn toàn theo ý của ta chưa. Nếu cần dễ dàng điều khiển, không bị đụng thành giếng hoặc bờ ao, kéo, nâng, múc, đổ nước dễ dàng là mọi sự xong xuôi, có thể đưa “công trình” vào sử dụng được rồi.
Ngày chưa có máy bơm, cây cần vọt là công cụ chủ lực để người ở làng quê lấy nước ăn, nước tưới. Sớm sớm chiều chiều, tiếng kẽo kẹt kẽo cà cứ rủ rỉ, thì thầm vào tai đứa trẻ quê từ khi mở mắt nằm nôi cho đến lúc lớn khôn. Khi những đứa trẻ đó xa làng quê, thanh âm kẽo cà kẽo kẹt kia vẫn còn.
Phải. Nó còn, còn mãi, lặn trong tận cùng thẳm sâu ký ức…
Y NGUYÊN