Lão Sáu lui cui tháo gióng cửa chuồng bò, bên trong con Vá đang nóng lòng khìn khịt thở mạnh khua sừng cồm cộp vào thanh chắn, lão quát khẽ “từ từ thôi con, còn sớm mà”. Phía chân trời sau lũy tre vẫn đậm bóng tối, ngôi sao mai đang nhấp nháy cùng vạn tinh tú, gió se se lạnh cùng tiếng côn trùng rỉ rả. Một hợp âm quen thuộc đối với người và vật vào mỗi sớm mai cho đến khi đàn gà chen chúc trên cây sào sát mái chuồng thôi không nghiêng ngó ánh sáng phát ra từ cây đèn bão treo trên càng chiếc cộ hai bánh bơm hơi, con trống lông tía đã đập cánh roàn roạt, cong cao cổ cất tiếng gáy kéo dài và như đồng loạt của sự báo hiệu gà nhà bên, phía sau đến cả xóm trên, xóm dưới thi nhau cất tiếng. Ban mai yên tĩnh đã hết, giờ phút giao điểm của bóng đêm và ban ngày, đã có nhiều tiếng nói văng vẳng rồi cũng như bao lần, cánh cửa bếp nhà lão cho luồng sáng yếu ớt rọi trên cành ổi, góc sân, bụi chuối đã bật mở. Vợ lão, người đàn bà nhỏ nhắn với khăn trùm đầu cui cúi đi đến bên lão, trên tay là chiếc bi đông nước cùng bọc vải đựng thức ăn.
![]() |
Minh họa: HƯNG DŨNG |
- Hôm nay vẫn chở cát cho nhà Vạn Lợi?
- Ừ.
- Trưa về không?
- Về.
Câu trả lời cộc lốc, ngắn ngủn phát ra phía lão Sáu đang hí húi tra móng vào chân con Vá. Như chủ, nó cũng tỉnh bơ đưa mắt nhìn và nhai đều đều đọt mía non đặt sẵn. Bà lão tháo cây đèn bão để lão Sáu tra càng, quàng dây buộc vào con Vá. Ban mai lại yên tĩnh khi bầy gà tung cánh xuống đất nháo nhác chạy khắp ngả vườn. Mùi rơm nồng rạ mục oi oi, mùi phân bò theo gió phát ra từ góc chuồng hăng sực để lão chợt nhớ, dặn:
- Bảo thằng Ba đánh phân cho tơi chóng khô, nhớ dọn sạch kẻo bầy mòng đến mùa đẻ, đốt bò khắp mình kia kìa.
Lần này vợ lão chỉ ừ cộc lốc, khôm người bê bó mía đọt ném vào thùng cộ, móc vào càng đồ dùng cho lão. Lão Sáu tróc miệng ra roi vào không khí, đệm thêm tiếng “đi thôi con, Vá”. Chiếc cộ rời sân thủng thẳng ra cổng tre lăn bánh trên con đường đất tiếp giáp cánh đồng, nơi xa kia là phố vẫn vầng sáng điện, ánh đèn xe thỉnh thoảng lóe sáng. Còn chỗ lão, ban mai yên tĩnh vẫn đọng trên những giọt sương lấp lánh kẽ lá, sương mù vẫn trôi mờ mờ, gió vẫn se se lạnh, tiếng côn trùng ri rỉ thỉnh thoảng mặt nước nơi dòng kênh xao động bởi nhái bén thấy bóng người liền nhảy tõm. Lão Sáu moi bịch thuốc rê trong túi áo bà ba vấn điếu sâu kèn, cúi người mồi lửa và làn khói lãng đãng trôi lúc con Vá đặt chân sang bên kia đường hướng về động cát nhẩn nha gõ móng đi đến.
Gần bảy giờ sáng, ánh nắng chan hòa trên cánh đồng, phủ xuống lũy tre lấp lánh trong các rộc nước. Ngã ba xóm Cói nằm gần phố thị đang ồn ào, tiếng đàn bà chửi con xoe xóe, trẻ nhỏ khóc thét, tiếng văng tục ồm ồm. Lũ heo ngang nhiên, bò ngang nhiên vừa đủng đỉnh chen lấn vừa tháo bậy ra đường. Tốp xe bò để cộ châu đầu chiếm hơn nửa lòng đường có quán cháo lòng tiết canh, tốp thợ hồ dựng xe san sát vào chái nhà lấn bạt đoạn hẻm có quán cà phê đang vặn hết volum phát giọng ca sến bài nhạc vàng chen trong tiếng cười nói: Rồi thanh niên rảnh việc, các cô gái làm đêm đủ nghề trở về chui tọt vào các lều dựng tạm sì sụp chan húp. Sương mù không còn tụ trên đọt tre để thay vào đó là các làn khói; Khói bếp hun trấu, khói rơm lẫn rác, khói hàng quán đủ mùi vị cứ là đà bảng lảng trôi gặp nắng mai liền tỏa lan theo gió.
Thằng Đực ngồi phía ngoài bàn cháo lòng, tô cháo đã hết nhẵn nhường cho bầy ruồi bu đầy. Nó trông thấy từ xa, già Sáu cùng con Vá chen lách qua lều quán liền quay mặt vào bảo cả bọn đang chuyền tay xị rượu thuốc “Đi thôi tụi mày, bác Sáu đến”. Loáng cái, năm chiếc cộ tháo dây, quay đầu hướng ra đầu hẻm phía đường lớn. Lão Sáu nối tiếp theo sau và đưa mắt như điểm danh đội hình hàng một. Đi đầu là Đực “lì”, đến Sơn “cụt”, rồi Phước “lai”. Hậu “gầy” và Thịnh “xoáy”, những tên đệm của bò gán vào như lão Sáu còn gọi là “Sáu vá” nghe ngồ ngộ nhưng dễ phân biệt vì cả xóm này, tính sơ gần chục tốp cộ bò, ban đầu đánh lẻ đi rong khắp hang cùng ngõ hẻm nhưng cuối cùng tự động phân nhóm vì không chịu nổi cảnh chụp giật và cướp bãi đổ vật dụng xây nhà. Và cánh lão Sáu được liệt vào tốp đắt hàng nhất, nghiêm túc nhất. Nhiều đứa sắm được chiếc cộ đến xin đầu quân nhưng lão lắc đầu, nói “Ngũ quỷ ấy, tao đủ mệt”. Thật ra, năm đứa ấy, lão đã ngầm chọn vì chúng hiền, dân chính gốc xóm Cói, cha mẹ chúng dù hẻm trên ngõ dưới cũng từng qua lại nhà lão. Ngày trước, xóm Cói chỉ vài chục nóc nhà rồi gần trăm vì đẻ đái phải ra riêng. Chứ cái đất này, thấp tủn, nước đọng quanh năm, sình lầy tứ mùa chỉ tồn tại được giống cói. Sau này, phố được nống ra, dân tứ xứ hội về, xóm Cói ngẩng mặt vì bán đất, xây nhà và cả cho thuê nhà. Cái văn minh ngõ cụt được lấp đầy không còn thấp tủn, nhưng bợm phải biết vì đã lai tạp và chỉ khi nào xóm Cói quy hoạch mới không còn cảnh bát nháo nơi vùng đất như ô bàn cờ.
Lão Sáu đắt hàng vì có uy tín bởi không ép giá hay phá giá tự do như các nhóm khác. Mà thời buổi này, ai xây nhà không cẩn thận từ vật tư, thời gian lẫn công sá bởi đó là tiền, mà tiền càng giảm thì càng lợi cho gia chủ. Chỉ tính việc những ngôi nhà trong các xóm nhỏ ngoại ô, trong các con hẻm đầy ngóc ngách chỉ có cộ bò là đi lọt, còn ô tô xe lớn thì đừng hòng, tiền công thuê gánh vào chưa kể đội quy tắc đến phạt còn đắt gấp mấy. Vậy là con bò rong ruổi trên các ngả đường với tấm bao tải rách treo lủng liểng sau đuôi phòng nó tháo bậy nhưng chưa có quy ước việc nó phưỡn ra, tè bậy. Mà nước đó, ôi chao hãi lắm, vừa nhiều vừa khai rình cứ tồ tồ như tháo cống. Riêng những con đường cấm xe súc vật đi lại thì tốp lão vẫn sẵn sàng phục vụ từ khuya đến rạng sáng. Thùng cộ của lão đúng quy cách, chẳng hạn hai bò là một khối, năm trăm viên gạch là một thùng, nếu thiếu bù liền. Cát lấy ngoài động vắng dân nên sạch bong, sạn lớn ngoài sông đúng tiêu chuẩn vào bê tông cốt thép. Sáng này, lão đánh cộ chở liền hai chuyến tặng không cho nhà Vạn Lợi, xem như khuyến mãi vì đã xong chỉ còn xây cổng, gia chủ rối rít cảm ơn tấm lòng của lão, nhất là dân buôn bán. Tiền lão cũng chia đều sòng phẳng cho cả nhóm, không cắt xén, không la cà quán xá ngoài giờ... đánh cộ. Bọn thằng Đực nghe lời già Sáu răm rắp, có lần bọn nó chứng kiến già tả xung hữu đột khi vừa xuống tấn liền vung roi quất tơi bời bọn xóm Cát chặn đường lão để giành bãi, có lần lão trừng mắt nhổ toẹt vào mặt gã nhà thầu bớt một chừa hai tiền đổ cát nền, buông giọng “Nhãi ranh, mày ngon thì ăn chặn bọn ngang hàng, đừng chọn lũ trên răng dưới..., hèn lắm!”, rồi phủi đít đi thẳng. Nghe bảo lão là lính đặc công một thời rồi về làm chủ nhiệm cửa hàng cói đến nhiệm kỳ rưỡi. Có điều, mỗi lần đi cát phải ra tận động, đến tận gò cao xa tít mù gần rào dây kẽm khu phi quân sự cũ. Cái gò vắng vẻ không ai lấy, chỉ trừ lão Sáu. Vậy mà, qua ba năm đã gần bằng phẳng nên lão cho cả bọn vào gần hơn, còn mình thì vẫn lầm lũi đến nơi ấy. Chuyện lạ. Nhưng thôi, lũ thằng Đực quất lẹ cho đầy thùng để còn chuyến sau kẻo nắng, mà nắng áp lưng bò nó dễ nổi quạu đứng lì chỉ nước cùng nó ngồi trơ giữa động cát trắng, chờ đến sẩm tối qua cái nóng đổ lửa có mà bốc cám khi công trình lão Sáu mới nhận bắt đầu xuống móng.
Chuyến sau cùng, trời sụp tối. Lão Sáu mệt bã người nằm toài ra cộ mặc cho con Vá đủng đỉnh tìm đường về. Gió đêm mát rượi, nhịp xe đều đều gõ móng khiến lão lơ mơ thiếp ngủ. Có ánh sáng chói lòa, chói nữa, bụng lão thầm nghĩ đoạn đường đêm nay sao lắm xe cộ dập dìu, nhưng mặc... Lại có ánh sáng leo lét tỏa lên động cát trắng, trải dọc hàng rào kẽm gai thêm cả thằng Tân, thằng
- Dậy mày, Sáu Cần!
Lão Sáu ngơ ngác nhìn, trước mặt là Ba Hoàng đang cúi người lay vai, tay kia đặt lên đuôi con Vá. Sau xưởng gỗ gần ranh đường sắt, đoàn tàu chạy qua rung chuyển mặt đất dưới chân và pha đèn sáng rực.
- Vào trong này uống trà, tôi vừa hãm nước đầu nghe ông.
Lão bước xuống cộ, với tay ra sau ném vài đọt mía cho con Vá rồi theo Ba Hoàng đến phòng trực xưởng. Cái đận tập kích ấy, cứ nghĩ Ba Hoàng tiêu rồi. Té ra, hắn lạc tiểu đội lúc nhào vào cổng sân bay. Bọn lính dẫn chó tảo thanh rát quá nên nhảy xuống bầu súng quơ lục bình, bèo tấm tấp đầy người chờ tối mịt hôm sau ngoi lên mò về cứ. Còn ông, sức ép của đạn pháo hất văng ra xa bất tỉnh, bị đưa liền lên trực thăng về thẳng tỉnh đường. Đập ông chán chê nó đẩy ra Côn Đảo. Đận ấy là năm 1968. Còn dạo 1975, ông và Ba Hoàng làm đến chủ nhiệm hợp tác xã mây tre, chiếu cói. Không hiểu rì rầm to nhỏ ra sao, tổ chức gọi lên đều đều, viết lý lịch đều đều và ông làm đơn nằng nặc xin xuống làm dân xóm Cói ngày ngày ngồi sau đuôi bò ra roi, xúc cát thủng thẳng góp phần xây những ngôi nhà khang trang sạch đẹp, cho khỏe.
Lại một ban mai yên tĩnh, lão Sáu và con Vá đi sớm hơn mọi bữa. Phải đi trước vì bọn thằng Đực lấy cát gần, còn ông ra tận gò. Được gần nửa cộ, chiếc xẻng va phải vật lạ nên ông cúi người để nhìn. Trong tranh tối, tranh sáng, Lão Sáu cầm lên chiếc bi đông bị mẻ góc vòi. “Đúng rồi, đây mà...”, chiếc bi đông của thằng
Mặt trời rọi tia nắng đầu tiên lên trảng cát, gió cuốn chạy lăn tăn tấp vào con người đẫm mồ hôi nhưng vẫn hất từng xẻng cát, hất mê mải đến cay xè mắt. Đến khi có vệt cát đen, khiến lão bật run, nghiến răng banh rộng và vệt cát ấy lộ dần ra từng đoạn vải kaki bạc thếch. “Bọn mày hả Tân, hả
Con Vá nhìn lão dùng tay khỏa cát trong thùng cộ thật đều rồi trải tấm ni lông luôn mang theo bên người. Lão hí húi như khi tra móng cho nó, đi xuống chỗ chiếc hố lão đào ôm nhẹ một vật bọc trong chiếc áo của lão lúc mặt trời lên cao, ánh nắng chiếu rọi cái bóng nghiêng nghiêng cui cúi, đôi chân khập khiễng, lồng ngực gầy tóp, nhăn nhúm những thẹo ngang dọc mà muốn ôm trọn bọc vải rồi còn thì thầm “Về thôi tụi mày, về ở với tao bữa nay. Tao xây nhà rồi, mái ngói đỏ đều tăm tắp như thuở ở rừng cả bọn chụm đầu mà bàn chuyện tương lai khi ngừng tiếng súng. Rồi ngày mai sẽ về quê, ừ, về quê, hứa chắc. Rồi hai đứa xem, dân xóm Cói qua đây lấy cát nâng cao mặt đường để chúng mày cưỡi cộ mà vào. Năm tao cưới vợ, ừ, bả cùng xóm, sát rào. Đêm ấy, bọn mày cũng đến vì chó sủa inh ỏi, tao biết nhưng im lặng, vì đận ấy còn sình lầy lắm...”. Lão bật cười một mình, rồi cười ha hả, mặc cho nước mắt giàn giụa, mặc cho bụi cát lấm lem phủ trên gương mặt nhễ nhại mồ hôi. Không phóng lên càng xe như mọi lần, không ra roi vào không khí như mọi bữa, không có chiếc mũ bất di bất dịch từ lúc ra cổng đến khi về, chỉ còn câu nói quen thuộc chao nhẹ trong nắng “Nào, đi thôi con, Vá”.
Tháng sau, mọi chuyện trở lại bình thường. Lão Sáu giao con Vá cho thằng Ba. Ngày đầu tiên ở nhà, Ba Hoàng xuống với lão. Cả hai ngồi bên chiếc bi đông mẻ vòi cùng 9 ly nước từ lúc ban mai êm ả có nắng trải dài trên cánh đồng cói, có tiếng cu gù gọi bạn trên mái ngói, có tiếng lích chích của bầy gà con tránh nắng trong lùm tre gần bờ ao rau muống đến tận xế trưa. Hôm sau, lão ngồi một mình bên bàn trà đặt ngoài thềm sân lúc ban mai yên tĩnh, trời còn mờ tối se se lạnh với ánh sao mai lấp lánh. Con Vá đã rời cổng rào tre, vợ lão ra khép cổng, tay mang cây đèn bão đến bên. Im lặng lúc lâu, bà cúi người nâng chiếc bi đông mẻ vòi nhẹ nhàng rót vào 3 chiếc tách để sẵn, trong mùi trà tỏa lan hình như thoảng qua trong gió nhẹ thổi có chút hương trầm quyện cùng ban mai yên tĩnh.