Lên thị xã!
Cái tin ấy khiến dân Bến Lớn vừa phấn khởi, vừa lo lắng.
Mọi người trong xóm bảo, nghe đâu lên thị xã rồi thì cái gì nó cũng lên, cũng đắt đỏ mà dân mình xưa giờ có mấy miếng ruộng, thu nhập có là bao, lên phố là xác định khổ rồi…
Phản bác ý này, bác Hai, người tuần nào cũng đọc báo Tuổi trẻ mua ở bưu điện gần nhà thì quả quyết rằng lên thị xã được nhiều cái lắm, trước mắt thì nước sạch sẽ về, đường sá sẽ đẹp hơn và rồi đất đai cũng lên giá, làm ăn cũng dễ hơn…
Mà thật.
Trước, con đường xương sống ở xóm xù xì hết lên dốc, xuống dốc rồi tối tù mù thì nay bê tông thẳng tắp. Dọc bên đường, một dãy bóng đèn cao áp với cái trụ cao vót đã được đưa về, làm sáng rực cả xóm. Mỗi ngày vài bận, người khắp nơi đi nguyên cả chiếc xe du lịch đến xem đất và mua bán đất.
An chưa kịp làm quen với cơn sốt đất thì vài ngôi nhà mới được dựng lên, rồi những chủ nhân lạ hoắc lục tục chuyển đến ở… Tự nhiên, An thấy lòng trống trải.
Nửa đời người sống trên đất quê. Từ nhỏ đến lớn, bước ra khỏi con ngõ dài ngoằng là An chào hết cô nọ tới thím kia. Vì không ít thì nhiều, tất cả đều là những người có ân tình với An, hay với gia đình An.
Năm An học lớp ba, cô Bảy phía dưới dốc đã mang lên cho An chiếc quần đùi kaki được cắt từ quần dài của mấy anh con trai cô mặc chật. Chiếc quần màu nâu đất, dày cộm, có cái lưng rộng rinh An đã mặc đến khi cái đít quần thủng một lỗ to, chuyển sang bạc phếch, vá víu đến khi không vá được nữa rồi mới vứt đi.
Đối diện nhà An là nhà bác Năm ngày trước giàu nhất xóm. Mỗi khi có đám giỗ, bác gọi chị em An sang ngồi cỗ rồi còn sai người nhà bưng qua cả mâm lớn, cả nhà An ăn đến tận hôm sau…
Sau này, khi tuổi đã nhiều, tiền bạc không còn dư dả, bác không còn làm đám giỗ linh đình nhưng khi gặp An vẫn dặn:
- Bữa đó, bác làm cái xúi xẩm, con dìa chơi nhen.
Phía trước nhà An là nhà chú Phương nổi tiếng tiết kiệm. Ngày này qua ngày nọ, thím Lan, vợ chú chỉ cho cả nhà ăn cá ồ muối mặn với rau cỏ trong vườn. Lo làm lụng, ăn uống đơn sơ nên chú thím cũng tích góp xây được một căn nhà nhỏ và mua được một chiếc xe Wave tàu. Chiếc xe ấy, thím quý như con. Lâu thật lâu có dịp ra thị xã mới dắt đi một lần và lần nào xe về đến cửa cũng rửa thật kỹ.
Vậy mà khi An gần học xong đại học, về trường cấp 3 gần nhà thực tập, đến chiếc xe đạp đàng hoàng còn không có mà đi, thím đã gọi An ra mà bảo:
- Mặc áo dài áo ngắn, gặp biết bao nhiêu học sinh mà đi chiếc xe đạp tàng sao được con. Tới thím lấy xe máy đi thực tập, chừng nào xong đưa lại cho thím.
…
Đó, xóm nhỏ xíu xiu, nằm bên sông, cuộc sống còn nhiều khó khăn… mà con người thì phóng khoáng, bao dung đến vậy.
Họ thương từ lúc An còn là đứa bé ốm nhom, đen thui. Họ nhìn An lớn lên, đi học rồi mà vẫn thương đến lúc An vào đại học, ra trường. Còn nhớ cái đêm An xếp quần áo chuẩn bị đi học xa nhà, chị Hai, con dâu bác Năm sang chơi, dúi dúi vào tay An năm chục ngàn, bảo ra đường thì uống nước. Năm chục ngàn khi ấy là cả một ngày làm việc vất vả của chị nên An cầm mà thấy rưng rưng…
Thế nên khi những ngôi nhà người lạ chuyển vào ở trong xóm, An tự hỏi, liệu mai mốt, làng có như phố, toàn người lạ, thi thoảng chỉ hỏi vài câu cho có lệ; rồi bao nhiêu cái gắn kết trước kia đứt gãy, tình làng nghĩa xóm liệu có còn?
Cũng may, đợt Tết vừa rồi về, An thấy ngoài vài cái nhà mới và một ít người lạ, xóm An không có thêm người nào nữa. Cơn sốt đất lên cao trào thì trong xóm cũng chỉ có vài mảnh đất được bán đi.
Dượng Ba có một mảnh đất to bảo:
- Năm rồi xây nhà, túng thiếu quá, cực chẳng đã phải bán đi lô đất, chớ đất đai bán làm gì. Người lạ vô ở sát vách mình cũng ngại.
Chỉ vào đám đất còn lại, dượng nói cứ để đó trồng cây, trồng rau màu rồi sau này chia cho các con mỗi đứa một phần cho chúng nó làm ăn.
- Mấy năm nay đất quê mình lên thị xã, đường sá to đẹp lên; rồi thì hội nông dân phường chỉ cho bà con làm nông nghiệp an toàn nên đồ dượng làm bán được tiền lắm. Dượng đã chỉ cách làm cho hết mấy nhà trong xóm nên ai cũng làm theo rồi. Bữa nay con có ăn gì thì về quê mình lấy ra, toàn đồ ngon, đồ sạch. Dượng khoe đầy vẻ hãnh diện. Nghe mà ấm hết cả ruột gan.
Rồi hôm bữa nhà chị Hai cưới vợ cho con. Cả nhà An từ già trẻ, lớn bé gì cũng về ăn cưới. Hôm cưới xong, bé cô dâu chạy sang nhà An ăn xoài. An kể cho nó nghe mấy cái thành tích bất hảo của chồng nó ngày còn nhỏ. Rồi mọi người cười ầm ĩ. Chồng nó thì bẽn lẽn.
Con bé thấy chồng ngượng nghịu thì xua xua tay:
- Chị đừng kể nữa, mấy cái đó chồng em muốn quên lắm, nhớ lại là ổng khóc á!
Mà kể cũng lạ cái cách xưng hô. An gọi ba mẹ nó là anh chị; mà tụi nó gọi An một tiếng chị, hai tiếng cũng chị… riết rồi loạn hết lên. Kệ. An thương tụi nó như em út trong nhà. Nên hôm đám cưới nó, khi ba tụi nó lên phát biểu, An dưới này cứ lén lấy tay áo quệt nước mắt…
An nhận ra, dù có lên thị xã hay sau này lên thành phố đi chăng nữa, xóm của An vẫn là nơi quần tụ của những tình cảm đơn sơ, giản dị mà ấm áp tình người. Tình thương ấy chỉ có sáng lên, lan tỏa ra theo những ánh đèn đường cao áp chứ không mai một dần hay mất mát đi.
Dưới ánh đèn ấy, bọn trẻ con trong xóm giờ cứ chờ tối đến là ào ra đường, chơi những trò con trẻ như An và những đứa bé cùng thời đã từng chơi với nhau đến tận khuya, đến vã mồ hôi mẹ, mồ hôi con rồi mệt quá, lăn vào giường là giấc ngủ ập đến, không mộng mị.
***
Sau bao nhiêu cái chộn rộn phố - làng, bác Năm, cô Bảy, dượng Ba vẫn giữ nếp sinh hoạt ấy; bọn trẻ thì chơi với nhau, cãi lộn, đánh lộn rồi cũng bình thản lớn lên. An thì vẫn thế, dõi theo những đứa bé trai, bé gái mới ngày nào bé choắt mà giờ đã trổ mã; những cô dâu mới về xóm làm dâu; những người già mất đi; lớp trẻ lên thay thế. An còn biết hết tên của những đứa bé mới được sinh ra trong xóm.
Nên, làng cứ lên phố đi, An thì vẫn thế và làng của An thì vẫn cứ bình yên giữa phố thênh thang.
BẢO HÀ