Thần đèn - truện ngắn của TRẦN QUỐC CƯỠNG

Thần đèn - truện ngắn của TRẦN QUỐC CƯỠNG

1 Sát bên con đường đất từ khu dân cư xóm Cồn băng qua đường sắt là cái “bốt gác” bằng tranh tre, nứa lá như cột nấm khổng lồ. “Bốt trưởng” là ông lão mặt chữ điền, dáng cao lênh khênh, nhưng bước đi còn đĩnh đạc lắm. Ông tên là Nhân, thứ bốn, họ Nguyễn. Mọi người quen gọi ông là “Bốn Bốt”.

1 Sát bên con đường đất từ khu dân cư xóm Cồn băng qua đường sắt là cái “bốt gác” bằng tranh tre, nứa lá như cột nấm khổng lồ. “Bốt trưởng” là ông lão mặt chữ điền, dáng cao lênh khênh, nhưng bước đi còn đĩnh đạc lắm. Ông tên là Nhân, thứ bốn, họ Nguyễn. Mọi người quen gọi ông là “Bốn Bốt”. Riêng vụ ông dựng cái bốt để gác đường tàu tránh tai nạn giao thông đường sắt là đề tài được mọi người đem ra tán gẫu trong những lúc trà dư tửu hậu một thời gian dài. Kẻ thì chê ông bị hâm, thừa cơm, rỗi việc, vác tù và hàng tổng… Người thì khen ông giàu lòng nhân ái. Ông bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu của thiên hạ, lặng lẽ gác đường.

Cho đến một ngày người ta nhớ lại mấy năm rồi ở xóm Cồn không xảy ra vụ tai nạn giao thông đường sắt nào, họ mới nhìn ông bằng ánh mắt cảm mến. Trong số những người ngưỡng mộ ông có cu Tý nhà ở gần đường tàu. Cu Tý hỏi ông Bốn Bốt: “Ông ơi! Mỗi lần tàu chạy qua đây, ông giơ chiếc đèn vuông lên để làm chi?”. Bốn Bốt cười hì hì: “Ta truyền tín hiệu an toàn cho tàu chạy đó nhỏ”. Cu Tý ngơ ngác: “Sao ông rành vậy?”. Bốn Bốt ngồi đong đưa trên võng, giọng hứng khởi: “Ta một thời từng thâm niên công vụ tuần đường sắt mà lại”. Cu Tý tròn mắt: “Ông không sợ ma?”. Bốn Bốt cười khần khật: “Ma là bạn đường của ta, việc gì phải sợ? Trên đường đi tuần, ta còn gặp vô số rắn, rít, cóc, nhái, chó, mèo và bóng đêm đen kịt ghê rợn”. Cu Tý co đầu rụt cổ: “Ông dạn quá trời luôn! Ban đêm, từ đây về nhà, cháu đã sợ ma run bắn lên rồi!”. Bốn Bốt như nói với một người bạn đồng hành: “Bão. Những trận bão. Càng gió bão, ta càng phải tuần đường để bảo vệ sự an toàn tuyệt đối cho những đoàn tàu ra Bắc vào Nam, nhỏ biết không? Ta xách đèn vuông tiến tới chống chọi với cuồng phong, trời dầm dề mưa buốt giá. Dọc đường cây cối ngả nghiêng, tôn, ván bị gió thốc bay vắt ngang đường ray. Ta phải thu dọn, tay chân mỏi nhừ. Thời của ta, tuần đường chỉ lẻ loi một mình một bóng, không áo phản quang, không pháo hiệu. Vậy mà ta đã đi qua, đi lại các cung đường trên 30 năm có dư”. Bốn Bốt chợt cất lên tiếng hát giọng khàn đục: Anh lái tàu ơi! Anh hãy yên lòng, con đường này luôn có tôi. Con đường này luôn có tôi đều bước trọn đời chăm lo…

2 “Đó là một đêm mùa hè nghiệt ngã. Trời đứng gió. Cái nóng bức bối. Gần hai giờ tay cầm cờ lê, tay xách đèn vuông đi lạo xạo trên đường sắt, đôi chân rã rời, lại còn phải căng mắt nhìn từng con ốc trên đường ray xem có làm sao không, hơi thở đã nặng dần, mồ hôi lấm tấm trên trán, ta chợt thấy láng cháng phía trước có hai người nằm dài trên đường ray. Ta nhổm da gà, khựng lại vài giây rồi lấy lại tư thế bước tới, nghe mùi rượu đặc quánh. Hai gã đàn ông nằm gối đầu trên thanh tà vẹt ngủ khì. Phía sau, đoàn tàu hỏa đang rầm rập lao tới. Đèn từ đầu máy quét sáng, luồng sáng cực mạnh”. Cu Tý bật dậy, mắt long lanh, mũi hếch, giọng gấp gáp: “Tàu có cán…không ông???”. Bốn Bốt cằm bạnh ra, nhồi thuốc lá vào cái tẩu, mấy ngón tay thô ráp lấm bấm cục thuốc rê, mồi lửa. Ánh lửa hắt một bên khiến gò má lõm đi, gương mặt ông già trở nên méo mó trông khó coi. Sau một hồi lập bập cho thuốc bén lửa, Bốn Bốt rít một hơi dài, phả khói. Làn khói lam lơ lửng bay lên, nhìn cu Tý, cười khù khụ: “Cái thằng nôn nóng như uống nước dừa giữa ngày hè. Khi ấy, ta đâm hoảng thả cờ lê, đặt vội cái đèn xuống đường ray, chộp hai bàn chân của người đàn ông gần nhất kéo ào xuống lề đường, rồi lao lên kéo tiếp người đàn ông thứ hai ra khỏi đường ray. Tiếng còi tàu cất lên vừa lúc ta xách đèn nhảy sang một bên. Đoàn tàu vụt qua. Hú hồn!”. Cu Tý thở phào: “Ối! Trời đất!”. Bốn Bốt cười hồn nhiên: “Nhỏ ạ! Sau cái đận ấy ta được thưởng”. Cu Tý nhao nhao: “Ông được thưởng? Ai thưởng cho ông? Mà thưởng cái gì vậy?”. Bốn Bốt như ngấu nghiến kỷ niệm đẹp trong đời: “Hai gã đàn ông được ta cứu nạn trong đêm hôm ấy chứ ai. Họ thức cả đêm chờ ta đi qua để tặng cục xôi gà và chai nước trà Bắc Thái. Họ giành nhau ôm chầm lấy ta hụi hữ: “Em cảm ơn anh đã sinh ra em lần thứ hai… Chúng em có chút lòng thành, anh nhận cho chúng em vui… Trời ơi! Nếu lúc đó không có anh thì tụi em tiêu ma rồi còn đâu!”. Khi ấy, ta mới hiểu họ uống rượu thấy nóng nảy trong người rủ nhau lên đường ray nằm nói chuyện cho mát rồi ngủ quên. Ban đêm đường sắt mát lắm nhỏ”.

Bốn Bốt có cả pho truyện ly kỳ kể hoài không hết. Mỗi câu chuyện gây cho cu Tý nỗi sợ hãi xen lẫn thích thú. Cậu bé gạ gẫm: “Ông ơi! Kể chuyện nghe chơi”. Ông già cười khành khạch: “Cũng được. Nhỏ muốn nghe ta kể chuyện thì đấm lưng cho ta chút xíu”. Cậu bé rời chiếc giường cá nhân, nhe răng cười: “Chuyện nhỏ. Ông hãy xem tài nghệ của cháu đây này!”. Cu Tý đưa hai nắm tay đấm vào lưng Bốn Bốt đều như người ta xổ trống múa lân. Thi thoảng cậu xoa bóp lưng ông già như nhân viên massage. Bốn Bốt mắt lim dim khoan khoái. Hoãn lại sự sung sướng, Bốn Bốt ngã người trên võng, giọng trầm trầm: “Ta còn nhớ, có một lần ở cây số 786 xảy ra vụ tai nạn đường sắt thương tâm. Đôi vợ chồng trẻ chạy xe máy băng qua đường sắt bị tàu hỏa húc chết, cả hai thi thể không còn nguyên vẹn. Đó cũng là cung đường ta bảo vệ. Tai nạn xảy ra buổi sáng. Buổi tối ta đi tuần. Đêm mịt mùng, lặng ngắt như tờ, đi qua nơi xảy ra tai nạn, ta sởn tóc gáy. Mùi tử khí xộc vào mũi ta tanh tưởi khôn cùng. Hình ảnh của người chết cứ chờn vờn trước mắt khiến đôi chân ta muốn ngã khụy. Ấy thế, ta vẫn phải đi qua”. Cu Tý buột miệng: “Ôi! Ma! Khiếp quá ông ơi! Ông can đảm quá xá! Cho cháu bạc tỉ, cháu cũng không dám bén mảng đến chỗ đó”. Bốn Bốt tiếp tục kể, giọng đượm màu hoài niệm: “Hồi ta còn đi tuần ở Km 671+200, mỗi lần qua đoạn này ta phải bò dài trên mặt đất mới khỏi bị gió thốc văng xuống biển”. Cu Tý đồng cảm: “Sao ông không tìm một việc làm nào đó đỡ nhọc nhằn, nguy hiểm hơn?”. Bốn Bốt cười buồn: “Cháu còn nhỏ lắm, chưa hiểu hết việc đời. Trời sanh ra mỗi người phải có một nghề nhỏ ạ. Ta gắn bó với việc tuần đường, làm “thần đèn” chỉ lối cho hàng ngàn, hàng vạn chuyến tàu an toàn mang lại niềm vui cho mọi người, góp một phần công sức cho xã hội lòng thấy rất vui, rất tự hào nhỏ ạ!”. Cu Tý chả hiểu thế nào là niềm tự hào vì mang hạnh phúc đến cho mọi người. Nó chỉ hiểu đại loại Bốn Bốt làm cái việc mà người khác không dám làm. Như vậy là oách nhất rồi!

3 Xóm Cồn ngày xưa là động cát mênh mông như sa mạc hoang tàn. Ngày hè, lũ chăn bò không dám đi chân trần trên cát. Cát bỏng như đem rang trong chảo lửa. Lũ mục đồng không quen mang dép. Thế là những chú bò mộng trở thành những con lạc đà đưa lũ trẻ qua động cát vào lúc nắng nôi. Qua khỏi động cát là cánh đồng bao la xa tít đến tận chân trời. Ngày hòa bình lập lại, người dân trước đó đi tản cư khắp nơi trở về bản quán, động cát dần dần hình thành xóm làng và cái tên xóm Cồn ra đời, dẫu nó có cái tên hành chính hẳn hoi: “thôn Lạc Nghiệp”. Từ xóm Cồn muốn sang các khu dân cư khác, lên quốc lộ 1 phải qua đường sắt Bắc - Nam. Chính con dốc thoai thoải từ xóm Cồn xuôi về đường sắt không có gác chắn đã gây ra biết bao tai họa cho những người tham gia giao thông. Ngày ấy, ông Bốn Bốt mới ướm thử với gia đình dựng cái bốt gác đường tàu đã bị vợ phản đối: “Ông lấy tôi làm vợ gần 50 năm đã có hơn 30 năm ông đi tuần đường. Đêm đêm tôi vò võ một mình. Giờ ông lại bày ra cái chuyện gác đường bao đồng thiên hạ”. Chẳng khác nào Bốn Bốt mới nhen lên ngọn lửa đã bị vợ thổi phụt. Bà ấy nói đúng quá đi chứ. Có người phụ nữ nào không xót xa khi chồng mình giữa đêm đen, mưa gió tả tơi, một thân, một mình âm thầm chịu cái lạnh thấu xương, dướn người trên con đường dài dằng dặc? Làm bạn với rắn, rít, cóc, nhái? Bốn Bốt không nản lòng, cười hề hà: “Tôi biết mình vì tôi mà chịu nhiều thiệt thòi. Kiếp này tôi nợ mình. Xin mình hãy để cho tôi góp một chút công sức cho sự bình an của mọi người. Mình thấy đấy, chưa tròn một năm, ở xóm Cồn đã có tới 5 vụ chết người vì tai nạn đường sắt. Vả lại tôi làm việc này là để lại cái đức cho con cháu”. Vợ Bốn Bốt có phần xiêu lòng: “Ông già rồi, hãy lo an dưỡng sức khỏe. Rủi có bề nào tôi biết phải làm sao?”. Bốn Bốt cười giả lả: “Tôi quanh quẩn trong nhà cũng buồn. Dựng cái bốt có chỗ đánh cờ với các bạn già thêm vui chớ sao!”.

Nói thì nói vậy, chứ ngày dựng cái bốt gác đường tàu, vợ Bốn Bốt là người hăng hái nhất trong việc vận chuyển tranh tre, nứa lá. Thằng con út của Bốn Bốt đào lỗ chôn trụ cây xong đứng dạng chân, nhe răng cười toe toét: “Ba ra riêng chẳng có gì ngoài tranh tre, nứa lá!”. Bốn Bốt đưa tay quệt mồ hôi ròng ròng trên má, cười nhăn nhở: “Cái thằng chuyện gì cũng giỡn được. Mẹ giận ba chưa nguôi đó nghe, đừng có đổ dầu vào lửa!”. Cậu con trai cười khòng khọc: “Mẹ mà giận được ba mới là chuyện lạ. Con chưa thấy ai cưng chiều ba như mẹ!”. Bốn Bốt ánh mắt ngời ngời hạnh phúc, quên cả mệt nhọc: “Đào lỗ cho xong đi ông tướng, còn đứng đó mà tán hươu tán vượn!”.

4 Ngày Bốn Bốt dựng bốt gác không thấy ai đến giúp, khi tháo gỡ bốt gác lại có chủ tịch xã dẫn mấy dân quân đến giúp sức. Ông chủ tịch còn ôm theo cái bằng khen, nói cười rổn rảng: “Trước khi tháo bốt gác, cháu mời bác nhận bằng khen tại đây để chụp ảnh luôn cái bốt làm kỷ niệm. Cháu cảm ơn bác thời gian qua đã giúp cho mọi người xóm Cồn được bình an! Sáng mai, ngành đường sắt sẽ làm gác chắn, cử công nhân túc trực tại đây. Bác hãy yên tâm về nhà vui cảnh điền viên cùng bác gái”. Đôi vai gầy của Bốn Bốt rung lên, giọng nói khàn đi: “Cảm ơn chính quyền quan tâm đến tôi! Cảm ơn ngành đường sắt…”. Lần đầu tiên, người ta thấy Bốn Bốt khóc. Hai giọt nước mắt như hai viên thủy tinh lăn dài trên đôi gò má nhăn nheo, nhưng ông lại mỉm cười sung sướng.

Từ khóa:

Ý kiến của bạn