![]() |
Minh họa của Hưng Dũng
|
Là cán bộ an ninh huyện, dì có mặt trong nhiều trận diệt ác trừ gian vang dội. Thằng giặc nào hé vòi tội ác, liền bị đội công tác của dì dằn mặt bằng những thư cảnh cáo. Tên nào không khôn hồn tỉnh ra, lập tức mất mạng. Địch lấy ảnh dì dán ở trường học, cổng chợ và treo giải một triệu đồng cho kẻ nào giết được Út Nhỏ. Mặc cái chết lơ lửng quanh mình, dì vẫn bám dân, giữ lấy phong trào.
Không bắt được con, địch quay sang hành hạ cha. Chúng gọi ông ngoại tôi lên bảo khuyên con về “hồi chánh” để được hưởng khoan hồng. Ông thủng thẳng: “Con tôi tự biết đường phải chọn, tôi khuyên sao được”. Chúng nhào vô đánh tới tấp ông cụ. Tấm thân gầy gục xuống, áo quần te tua, bê bết máu. Ông tôi mòn mỏi qua những lớp học “liên can, huấn chính” của địch. Chúng bắt ông đêm đêm ra đồn ngủ nhằm làm bia đỡ đạn nếu quân ta đánh vào và sáng sáng kéo câu liêm đi quanh đồn dò mìn. Cái chết được báo trước đến với ông tôi vào một sớm mùa đông, mưa giăng mờ khắp nẻo, sau tiếng nổ kinh hoàng. Nhận tin dữ, dì Út lặng đi, không khóc. Nhưng đêm đến, dì đứng trên căn cứ Hòn Tàu, gọi trong ai oán uất hận: “Cha ơi! Cha ơi!”. Tiếng dì dội vào vách đá, vỡ vụn trong tiếng gào thét man dại của bom pháo. Mặc lời khuyên cần bình tĩnh của đồng đội, dì vẫn quyết về để tang cha và rơi vào ổ phục kích - cái bẫy giăng sẵn của địch. May mà dòng sông quê hiền hòa, mở lòng che chở người con trung hiếu.
Không lâu sau, dì Út nhận lệnh khử tên quận trưởng ác ôn khi hắn đến dự lễ khánh thành chợ Định. Phương án vạch sẵn, khi hắn vừa xuống xe là dì khởi sự nhằm tránh thương vong cho dân thường; đồng đội ở vòng ngoài sẵn sàng yểm trợ dì thoát hiểm khi xong nhiệm vụ. Nhưng buổi lễ diễn ra bình yên, không có tiếng nổ như dự định. Tại sao? Bao câu hỏi sửng sốt cùng ánh mắt ngờ vực của đồng đội dồn về phía Út Nhỏ. Dì cúi đầu, bất động trong đau khổ; lâu, thật lâu mới khó nhọc nói lên được sự thật. Thì ra khi tên quận trưởng vừa xuống xe thì xã trưởng Phan - người cậu ruột của dì cũng xuống theo. Bối rối trước tình huống bất ngờ, chân tay dì bủn rủn, không thể rút chốt lựu đạn.
Ngược thời gian, qua lời kể của mẹ, tôi nghe ngày chào đời, dì Út “đi” ngược, chỉ ra được một chân và dừng lại trong nỗi lo bạc mặt của người thân. Cả ngày ròng, nhà ngoại tôi cuống cuồng, tìm mọi cách cho đứa bé chào đời nhưng bất lực. Đang dong ruổi trên chiếc ghe bầu buôn bán nơi xa nhưng nghe tin, ông Phan tức tốc quay về. Ông bồng xốc chị gái bỏ xuống ghe, chèo thẳng ra nhà thương Hội An. Khi dì Út cất tiếng khóc trong tiếng cười của người thân cũng là lúc ông lả đi vì kiệt sức. Chẳng nhớ đã bao lần bà ngoại tôi kể lại chuyện ấy và lúc nào cũng kết thúc bằng lời dành riêng cho dì: “Nếu không có cậu, con chết rồi!”… Bây giờ, vì người cậu ấy, dì bị kỷ luật, bị đưa về tuyến sau phụ trách trại sản xuất của cơ quan.
Rời cây súng, dì cầm lấy cái cuốc, con dao quắm và lùi vào rừng sâu. Sau tổng tiến công Mậu Thân, một lần nữa, đồng đội ngược vào núi, ôm lấy dì trong niềm vui pha lẫn sự biết ơn. Số là trước đó, không ít cán bộ chủ quan cho là một trận thắng luôn nên dõng dạc tuyên bố “cắt võng, xuống núi”. Đâu dè chiến thắng không trọn vẹn, địch phản kích dữ dội, quân ta dạt khỏi ven đô, đồng bằng, về lại với rừng núi. Đói! Thế là những bồ sắn, chồ bắp được dì Út chắt chiu cất trong hang đá bỗng quý hơn vàng.
Sau chiến thắng 1975, dì làm chủ tịch xã, tất bật cùng bà con xây dựng cuộc sống mới trên chi chít hố bom cùng những cánh đồng hoang, cỏ lút người. Cơ quan xã ở xa, lại không đi được xe đạp, ngày nào dì cũng lội bộ từ sớm để kịp giờ làm việc. Tôi nhớ mãi hình ảnh dì xắn quần tới gối, tay xách dép, tất tả trong nắng trưa, mưa chiều, tới công sở mà chẳng khác khi ra ruộng. Trưa đứng bóng hoặc tối mịt dì mới về tới nhà. Thằng cu nhỏ con dì khát sữa, khóc ngằn ngặt trên tay bà ngoại trong khi hai bầu vú dì cương cứng, sữa chảy ướt cả vạt áo ngực. Hết lo cứu đói cho dân, dì lại cùng du kích rà phá bom mìn giải phóng đồng ruộng rồi tuyên truyền chính sách hòa hợp nhằm xóa hận thù giữa những người từng đứng hai bên chiến tuyến. Đi cải tạo về, tay đồn trưởng ngày trước hành hạ ông tôi đến chết, khúm núm tìm đến dì Út lựa lời nói khéo mong bỏ qua chuyện cũ. “Đó là nỗi đau của cả dân tộc, chứ nào riêng ai - Giọng dì trầm buồn - Xin đừng khơi lại!? Nói rồi, dì đứng lên chìa tay về phía người đó.
Khi dì Út chứng nhận hồ sơ đi thi rồi đồng ý cắt hộ khẩu cho số học sinh trong xã là con của cảnh sát, sỹ quan ngụy được vào đại học thì rắc rối đến. Lúc đầu không ai để ý nhưng khi các cháu lên đường nhập học thì chuyện bung ra. Người ta kinh ngạc khi biết người làm sai chủ trương chính là bà Chủ tịch xã. “Đồng chí làm việc ấy vì động cơ gì?” - Câu hỏi ấy lặp đi lặp lại trong buổi họp kiểm điểm dì Út. “Đời tôi ít được học, giờ thấy các cháu học hành tấn tới, tôi quý lắm - Dì bộc bạch, giọng cay đắng - Vả lại, ai làm nấy chịu, sao nỡ bắt con trẻ phải khổ vì cha chúng?!” Người ta có quyền nghi ngờ lời dì, khi sau đó loan ra tin dữ: ngày bị bắt, Út Nhỏ đầu hàng địch! Dì tôi đờ đẫn khi bị Ban kiểm tra Huyện ủy gọi lên làm rõ thực hư. Thì ra trong tàng thư của địch ta thu được sau giải phóng có “đơn xin hồi chánh” của dì tôi. Dì tròn mắt, trân trân nhìn tờ giấy được đánh máy sẵn, phía dưới thay vì chữ ký như thường thấy là dấu điểm chỉ của người làm đơn; cơ quan kỹ thuật hình sự xác nhận đúng là dấu vân tay của dì. Dì đọc đi đọc lại tờ giấy nhục nhã ấy rồi lắc đầu dứt khoát. Phải nhiều lần làm tường trình, tự thuật về những ngày đau đớn bởi đòn thù nhưng có lẽ dì đau đớn hơn nhiều trước ánh mắt bỗng ghẻ lạnh, xét nét của đồng chí. Cuối cùng cấp trên không kết luận dì đầu hàng nhưng cũng không thể khẳng định điều ngược lại. Dấu vân tay trong tờ giấy nọ vẫn tròn xoay như câu hỏi lớn. Sự nghi hoặc lửng lơ khiến tóc dì tôi bạc nhanh và những cơn động kinh đến càng dày hơn. Mỗi lần chuyển trời, dì lên cơn co giật, la hét, cảnh bị tra tấn rùng rợn trong tù ngày trước lại hiện về. Dì chửi quân dã man, phủ nhận lời buộc tội của chúng, hát những bài ca cách mạng… Trong cõi vô thức, dì khỏe lạ thường; lắm lúc đạp văng cả hai người đang giữ tay chân mình. Nhìn dì thở dốc, mồ hôi đầm đìa, người rũ rượi sau mỗi lần như thế, tôi không cầm được nước mắt. Chiến tranh đã lùi xa nhưng với dì tôi, đau thương vẫn còn đó.
Tiếng là hưu nhưng dì Út chẳng nhàn được là bao. Ngoài việc nhà, chiều nào dì cũng thơ thẩn khắp các thôn trong xã với cây bút, quyển sổ và mấy thẻ hương trên tay. Từ trảng cát Hàng Nhãn đến biển dâu xanh ngắt bên sông hay dãy đồi trắng xóa bông lau phía tây của xã, nơi nào có mộ liệt sĩ dì đều tìm đến. Dì vẽ sơ đồ, làm dấu, ghi danh từng mộ qua tấm bia làm vội do đồng đội người đã khuất dựng lên sau ngày toàn thắng. Việc làm ấy của dì được nhiều người biết, khi ba năm sau xã quy tập hài cốt liệt sĩ vào nghĩa trang. Bấy giờ, dòng chữ bằng sơn trên những tấm bia bằng gỗ hoặc tôn đã trôi theo mưa nắng. Người ta xót xa, thảng thốt. Nhưng gần trăm liệt sĩ không bị mất tên bởi được lưu trong cuốn sổ nhỏ của dì tôi.
Lần đầu tiên, dì Út có số tiền khá lớn, khi Nhà nước trợ cấp làm nhà cho người hoạt động cách mạng trước Tháng Tám năm 1945. Dì gọi con cháu về và “phân phối lại”; ai nghèo khó hơn sẽ được phần nhiều. Giữ để dưỡng già - chúng tôi nhất loạt từ chối lòng thơm thảo của dì bằng lời khuyên ấy. Dì không hài lòng và có cách buộc chúng tôi phải nhận khi quy tiền thành những món quà. Sau đó dì gặp lãnh đạo địa phương, trao số tiền ủng hộ xây dựng nhà bia ghi tên các anh hùng liệt sỹ trong xã. Vậy đấy, mặc dâu bể can quan, dì tôi vẫn vẹn nguyên yêu thương và bền lòng đi qua muôn nghìn giông bão.
Cuộc đời đầy buồn đau của dì rồi cũng có lúc niềm vui chợt đến. Khi dì đã bị liệt nửa người và giọng nói trở nên méo mó khó nghe thì ông bí thư Đảng ủy xã tới thăm và thông báo kết luận của trên về những năm dì bị tù. Qua kiểm chứng nhiều tài liệu và cả những người trong cuộc, ta đã tìm ra sự thật, minh oan cho những chiến sĩ cách mạng trung kiên như dì Út. Sự thật là khi không thắng được bằng đòn roi, kẻ thù đã hèn hạ bôi đen danh dự của dì bằng hồ sơ giả. Cả dấu vân tay, chúng cũng chỉ lấy được sau khi dì bị tra tấn đến ngất lịm.
Bàn tay dì run run nắm lấy bàn tay ông bí thư Đảng ủy. Đôi mắt mệt mỏi của dì sáng lên, miệng nhoẻn nụ cười khó nhọc mà hai hàng nước mắt chảy dài…