Thiếu vốn, thiếu cơ sở sản xuất giống chất lượng

Thiếu vốn, thiếu cơ sở sản xuất giống chất lượng

Dù được tiếp nhận và chuyển giao nhiều công nghệ sản xuất giống mới có hiệu kinh tế cao, nhưng do kinh phí eo hẹp, thiếu cơ sở sản xuất chuyên dụng cho nuôi trồng thủy sản (NTTS) nên hoạt động sản xuất giống tại Trung tâm Giống - Kỹ thuật thủy sản Phú Yên chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm. Hầu hết các đối tượng chưa được chuyển giao cho người dân cũng như không thể tổ chức sản xuất.

Dù được tiếp nhận và chuyển giao nhiều công nghệ sản xuất giống mới có hiệu kinh tế cao, nhưng do kinh phí eo hẹp, thiếu cơ sở sản xuất chuyên dụng cho nuôi trồng thủy sản (NTTS) nên hoạt động sản xuất giống tại Trung tâm Giống - Kỹ thuật thủy sản Phú Yên chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm. Hầu hết các đối tượng chưa được chuyển giao cho người dân cũng như không thể tổ chức sản xuất.

SẢN XUẤT NHIỀU GIỐNG MỚI 

Trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh Phú Yên đến năm 2010 và những năm tiếp theo, phát triển thủy sản vẫn đóng một vai trò quan trọng. Mục tiêu phấn đấu của xuất khẩu thủy sản vào năm 2010 sẽ đạt 52,9 triệu USD, trong đó phần đóng góp của nuôi trồng thủy sản chiếm 62,7%. Để đạt mục tiêu này, ngành NTTS cần phải phát triển đồng bộ cả về diện tích, năng suất, đồng thời mở rộng đối tượng nuôi và áp dụng các công nghệ tiên tiến đảm bảo phát triển bền vững.

Trong vòng 5 năm (từ năm 2003-2008), Trung tâm Giống - Kỹ thuật thủy sản Phú Yên đã tiếp nhận thành công nhiều công nghệ sản xuất giống mới. Cụ thể, đã tiếp nhận công nghệ sản xuất giống tôm đất (tôm rảo), ốc hương, bào ngư, ghẹ xanh, cua xanh, sò huyết, tôm càng xanh, cá rô phi đơn tính dòng GIFT đơn tính đực, cá lăng vàng, cá bạch tượng; công nghệ ương nuôi cá hồng mỹ, cá mú. Ngoài ra, trung tâm cũng đã tự nghiên cứu thành công cho ếch đẻ.

Năm 2008, trung tâm đã tiếp nhận công nghệ sản xuất giống cá lóc ở Đồng Tháp và sản xuất thực nghiệm tại địa phương được khoảng 10.000 cá lóc giống. Tuy nhiên, do thời điểm triển khai sản xuất thử nghiệm trễ, nhu cầu giống trong dân không có nên hiện nay trung tâm đang tiếp tục nuôi dưỡng. Cũng trong năm 2008, trung tâm đã sản xuất được khoảng 13.500 con cua xanh giống và hướng dẫn quy trình cho một số trại giống ở khu sản xuất giống Bình Kiến (TP Tuy Hòa) và Gành Đỏ (Sông Cầu)… Năm 2009, trung tâm tiếp tục nuôi dưỡng và hoàn thiện quy trình sản xuất 40.000 con cá lóc giống và 10.000 con cá bạch tượng, đồng thời sản xuất 180.000 con cua giống cỡ 1,2cm và 6.000 cá măng giống kích cỡ giống dài 5cm.

THIẾU VỐN, THIẾU TRẠI SẢN XUẤT

Hiện nay, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Giống - Kỹ thuật thủy sản Phú Yên có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ. Trung tâm được trang bị hệ thống phòng thí nghiệm với tương đối đầy đủ các máy móc thiết bị phục vụ cho việc kiểm tra một số chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa thông thường trong NTTS và các bệnh thường gặp trên tôm. Tuy nhiên, cho đến nay, trung tâm vẫn chưa được trang bị hai cơ sở sản xuất giống chuyên dụng phục vụ trong lĩnh vực nước mặn và nước ngọt. Do vậy, việc tiếp nhận công nghệ chỉ dừng ở giai đoạn sản xuất thử nghiệm tại địa phương, hầu hết các đối tượng chưa được trung tâm chuyển giao cho dân cũng như không thể tổ chức sản xuất; trừ ốc hương, cá rô phi đơn tính dòng Gift, tôm đất đã được chuyển giao cho một số hộ dân nhưng việc mở rộng sản xuất còn hạn chế.

Riêng ở lĩnh vực nước ngọt, trung tâm phải thuê một số ao hồ của tư nhân để nuôi dưỡng và cho đẻ một số đối tượng có quy trình tương đối đơn giản như rô đồng, rô phi đơn tính. Tuy nhiên, do các địa điểm này có nguồn nước cấp, thoát không chuyên dụng cho NTTS, thiếu nước vào mùa nắng, lụt vào mùa mưa nên việc nuôi dưỡng cũng như áp dụng các biện pháp kỹ thuật cho cá đẻ cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả không cao. Năm 2008, trung tâm đã sử dụng hai ao trong số các ao nuôi của Trạm thực nghiệm và Trình diễn NTTS nước ngọt Hòa Định Đông (Phú Hòa) phục vụ cho việc lưu giữ đàn cá bố mẹ và sản xuất giống, nhưng do diện tích sử dụng ít, vị trí trạm thực nghiệm xa nên việc triển khai sản xuất các đối tượng trong thời gian tới vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Trên lĩnh vực nước mặn, nhiều năm qua trung tâm đã thuê tạm trại sản xuất của dân, nhưng các trại này không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật làm ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất giống, chuyển giao công nghệ. Thêm vào đó, hiện nay UBND tỉnh đang có chủ trương thu hồi một phần diện tích đất thuộc khu sản xuất giống Bình Kiến phục vụ cho việc phát triển ngành du lịch đã dẫn đến số lượng trại hiện được phép sản xuất còn rất ít, trong khi nhu cầu thuê trại trong dân cao nên kéo theo giá thành thuê trại khá cao, dao động từ 20 – 30 triệu đồng/năm/trại. Vì vậy, trung tâm không đủ kinh phí để thuê trại như những năm trước.

Ngoài ra, phí chuyển giao công nghệ từ các viện, trường rất cao, thường trên 100 triệu đồng/quy trình công nghệ. Trong khi kinh phí ngân sách cấp cho hoạt động của trung tâm không đủ để tiếp nhận công nghệ mới. Mặt khác, việc thuê mướn trại cũng chiếm một khoản kinh phí lớn nên các khoản kinh phí tiếp nhận và sản xuất thử nghiệm bị thu hẹp dần. Trung tâm phải liên hệ với các cơ sở đồng ý chuyển giao công nghệ với giá thấp để tiếp nhận mới các công nghệ có triển vọng áp dụng ở địa phương. Tuy nhiên, do kinh phí hạn hẹp nên việc chuyển giao cũng chỉ ở mức độ tham quan, học tập và chủ yếu tự nghiên cứu nên phải có thời gian sản xuất 1- 2 năm để hoàn thiện các quy trình.

Để góp phần nhanh chóng đa dạng, hợp lý hóa cơ cấu đối tượng NTTS và từng bước đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất các đối tượng giống mới, tỉnh cần sớm đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất giống nước mặn và nước ngọt trên địa bàn Phú Yên.

LÊ THỊ NỞ

Từ khóa:

Ý kiến của bạn