5 yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng

5 yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng

Ngành GD-ĐT đang mở ra một cuộc thảo luận lớn chuẩn bị cho cuộc đổi mới căn bản và toàn diện trong nhà trường.

Ngành GD-ĐT đang mở ra một cuộc thảo luận lớn chuẩn bị cho cuộc đổi mới căn bản và toàn diện trong nhà trường. Riêng đối với môn Ngữ văn ở trường phổ thông, việc cải tổ đó cần phải tính đến những yếu tố tác động hỗ tương như: cấu trúc nội dung và chương trình, sách giáo khoa (SGK), chất lượng giáo viên, trình độ và tâm lý học sinh, tổ chức thi cử.

Sân khấu hóa trong phương pháp dạy và học Ngữ văn của học sinh, giáo viên Trường THPT Nguyễn Huệ - Ảnh: T.HẰNG

TỪ VIỆC BIÊN SOẠN CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA...

Không thể phủ nhận rằng chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay có một bước tiến rõ rệt về tư duy giáo dục lẫn quan niệm văn học so với thời mà kiến thức dạy văn còn sơ lược, dựa trên những văn bản thiên về tính minh họa. Dù vậy, bước tiến đó vẫn chưa đáp ứng được khao khát và niềm hứng thú của học sinh về môn học có thể đồng hành với họ trên đường đời, thay vì món nợ mà họ phải trả cho nhà trường.

Theo tôi, việc đầu tiên cần làm là xây dựng một tập thể những nhà sư phạm am hiểu nhất về văn học để thống nhất cấu trúc và nội dung chương trình tổng thể cho 3 cấp lớp. Cần chấm dứt cách làm chương trình “cắt khúc” như từng diễn ra: người làm chương trình cấp 3 không biết người làm chương trình cấp 2, cấp 1 như thế nào; và ngược lại. Cần xác định chương trình ngữ văn giải quyết những mục tiêu cụ thể nào ở từng cấp học, thể hiện mối quan hệ giữa văn học với đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học…

Từ một cấu trúc chương trình thống nhất, hợp lý, sẽ đưa vào nội dung chương trình những bài học và văn bản phù hợp. Lâu nay hình như chúng ta đầu tư cho biên soạn SGK rất nhiều nhân lực, còn đầu tư xây dựng chương trình thì chưa tương xứng. Hiện nay, có quan niệm làm chương trình theo phương pháp đồng tâm: một bài văn có thể dạy cho cấp 1 và cấp 2. Trong đó, cấp 1 thì dạy khái quát, cấp 2 thì mở rộng và đào sâu. Tất nhiên chọn một bài văn để đưa vào SGK không đơn giản. Phải có một bề dày kinh nghiệm và cảm thụ văn học, am hiểu tâm lý học sinh, phải có vốn liếng văn học sâu rộng và có bản lĩnh khoa học thì mới tìm được một văn bản hay nhất để dạy cho một độ tuổi nhất định. Nếu chọn đúng và hay thì 30 năm nữa cũng chưa cần thay đổi chương trình.

... ĐẾN VIỆC DẠY VÀ HỌC

Dù quan niệm giáo dục hiện đại lấy người học làm trung tâm, thì thực tế ở trường phổ thông cho thấy thầy cô giáo vẫn là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cải cách. Trong nhân tố này có vấn đề tầm nhìn, kiến thức, phương pháp và kỹ năng. Tôi tán thành ý kiến nhấn mạnh tầm quan trọng của phương pháp dạy văn. Nhưng thiết nghĩ trong tình hình hiện nay, đổi mới phương pháp chưa phải là yêu tố tiên quyết. Bởi vì có phương pháp hay đến mấy mà dạy những bài văn sáo mòn, nhàm chán và không phù hợp với đối tượng tiếp nhận thì người thầy cũng không thể truyền được tình yêu văn học cho học sinh. Hơn nữa, việc thay đổi phương pháp đòi hỏi thay đổi quan niệm đào tạo và tái đào tạo các trường sư phạm, điều không thể xảy ra một sớm một chiều. Mặt khác, những phương pháp mới gắn liền với những lý thuyết mới như phong cách học, thi pháp học, ngữ dụng học là để trang bị cho người giáo viên giảng dạy hay hơn, sâu hơn văn bản, chứ không phải là để nạp thêm kiến thức cho học sinh. Tôi tán thành quan niệm dạy văn ở phổ thông chủ yếu là nghệ thuật, dạy văn ở đại học chủ yếu là khoa học. Dạy văn ở phổ thông là để dạy người, dạy văn ở đại học mới là dạy nghề.

Học sinh hiện nay ít yêu thích môn Ngữ văn, thực trạng đó không phải do chương trình, SGK hay giáo viên mà còn do chính bản thân học sinh đã thay đổi nhiều về tâm lý và quan niệm sống so với các thế hệ trước. Nhà trường không thể nào “sửa chữa” được đặc điểm đó của thế hệ trẻ mà chỉ có thể điều chỉnh phần nào bằng sự thuyết phục của văn học. Hiện nay, trên sách báo, internet, bên cạnh những tác phẩm tinh hoa, xuất hiện đầy rẫy văn học thứ cấp. Nhiều học sinh mê đắm tiểu thuyết ngôn tình, sa lầy vào đó, dần dần mất cân bằng trong cảm thụ văn học và có thể tự mình hủy hoại cảm xúc và thị hiếu của mình. Những người làm chương trình, viết SGK, các thầy cô giáo và nhà trường làm sao giành lại tâm hồn những học sinh chỉ biết có tiểu thuyết ngôn tình? Cần đưa vào chương trình cấp 2 những bài văn đẹp về tình yêu (không thiếu trong văn học Việt Nam hiện đại). Cần khơi gợi cho học sinh cấp 3 nghĩ đến những vấn đề về tồn vong của đất nước, về lý tưởng xã hội, về những bi kịch của số phận con người để họ đứng cao hơn văn chương thứ cấp.

Trong quá trình dạy học, thi cử là khâu cuối cùng nhưng có thể là đòn bẩy của việc cải cách dạy và học môn Ngữ văn. Lâu nay vẫn chủ trương “học gì thi nấy”, thành ra có những khổ thơ 4 câu đã được sử dụng không biết bao nhiêu lần để ra đề thi tú tài và tuyển sinh đại học. Đó là nguyên nhân dẫn đến không chỉ tình trạng “văn mẫu” mà cả “tư duy mẫu” không khuyến khích ý kiến riêng và cảm xúc cá nhân. Vì vậy rất cần thiết phải thay đổi cách ra đề thi.

Cấu trúc và nội dung chương trình, SGK, chất lượng giáo viên, trình độ và tâm lý học sinh, tổ chức thi cử là 5 yếu tố có quan hệ mật thiết và tác động hỗ tương; nhưng việc cải cách trước hết cần tập trung vào cấu trúc, nội dung chương trình và cách thi cử. Đổi mới cấu trúc, nội dung chương trình và cách thi cử sẽ giúp giáo viên hứng khởi khi dạy học và học sinh yêu thích môn Ngữ văn hơn. Ngược lại, khi làm chương trình và SGK cũng phải tính đến thực trạng đội ngũ giáo viên và tâm lý của học sinh thời nay.

GS.TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

(Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh)

Từ khóa:

Ý kiến của bạn