Tên gọi Hồ Chí Minh có từ bao giờ

Tên gọi Hồ Chí Minh có từ bao giờ

Cuối thu 1938, Bác rời Mát - xcơ - va qua các nước Nam Á thuộc Liên Xô cũ, qua Urumxi (Tân Cương) rồi Tây An, Diên An (căn cứ địa của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Công Nông Trung Hoa).

Cuối thu 1938, Bác rời Mát - xcơ - va qua các nước Nam Á thuộc Liên Xô cũ, qua Urumxi (Tân Cương) rồi Tây An, Diên An (căn cứ địa của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Công Nông Trung Hoa).

ba-ho130519.jpg

Bác Hồ tại Đại hội Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 - Ảnh: T.LIỆU

Bác làm việc tại Diên An hai tuần rồi trở lại Tây An. Từ đây, Bác có tên là Hồ Quang - Thiếu tá Bát lộ quân.

Thiếu tá Hồ Quang được một phân đội Bát lộ quân tinh nhuệ tháp tùng qua những con đường trùng điệp núi non hiểm trở, sa mạc và đầm lầy hoang dã vùng Tây Bắc Trung Quốc để xuống Hoa Nam. Ông Diệp Kiếm Anh - Tổng tham mưu Trưởng Bát lộ quân đón Bác tại một địa điểm trên cao nguyên Vân Quý (Vân Nam - Quý Châu). Hai ông là bạn thân từ thời ở Quảng Châu, cuối những năm thập kỷ 20 thế kỷ 20. Gần mười năm gặp lại nhau, hai ông mừng vui khôn xiết.

Tại Biện sự xứ Quế Lâm của Bát lộ quân (Quế Bát Biện) Tổng Tham mưu Trưởng Diệp Kiếm Anh trịnh trọng giới thiệu với Ban chỉ huy và chiến sĩ:

- Thiếu tá Hồ Quang về làm việc tại đây, các đồng chí có trách nhiệm đặc biệt bảo vệ đồng chí Hồ Quang.

- Chỉ một thời gian rất ngắn, với nếp sống giản dị, phong cách cởi mở, Thiếu tá Hồ Quang đã mau chóng hòa hợp với hơn 100 sĩ quan và chiến sĩ trong Quế Bát Biện. Họ không gọi Người là Hồ Thiếu tá như điều lệnh quy định. Họ gọi Người là Bác Hồ (Hồ bá bá) để tỏ lòng tôn kính, gần gũi.

Về phía bạn, còn một người biết rõ nhân thân của Bác là ông Chu Ân Lai, bạn thân của Bác thời ở Pháp. Ông Chu Ân Lai hiện là đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc và lực lượng vũ trang của Đảng tại Trùng Khánh đã nhận được thông tin “Hồ lão đại” (Anh Cả Hồ) đang ở Quế Lâm.

Từ khi về đến Quế Lâm, suốt cả năm 1939 đến năm 1940, Người đã tìm mọi cách liên lạc với Trung ương Đảng trong nước: gửi mật thư, gửi bài đăng trên báo Notre Voix (Tiếng nói chúng ta) - Cơ quan ngôn luận công khai của Đảng tại Hà Nội. Người ký tên là P.C.Lin hy vọng các đồng chí trong nước nhận ra Người.

Tháng 2/1940, sau khi đến Trùng Khánh gặp ông Chu Ân Lai; bí mật gặp nhà yêu nước Hồ Học Lãm (người Quỳnh Lưu - Nghệ An) là sĩ quan cao cấp trong Tổng hành dinh Quân đội Quốc dân Đảng, Người về Côn Minh (Vân Nam).

Một buổi sáng, trong bộ đồ sang trọng, thời thượng, Người đến hãng dầu cù là Vĩnh An Đường tìm ông Trịnh Đông Hải (ông Vũ Anh). Người tự giới thiệu bằng tiếng Trung Quốc:

- Tôi là Trần có việc cần gặp ông.

- Trần tiên sinh hẹn ông Trịnh Đông Hải tại một vườn hoa cách xa hãng Vĩnh An Đường vào buổi chiều cùng ngày. Ngay ngày hôm sau, ông Trịnh Đông Hải dẫn Trần tiên sinh đến nơi ở của ông Phùng Chí Kiên - Trưởng ban Hải ngoại Trung ương Đảng kiêm Bí thư chi bộ Đảng.

Nhác thấy Bác, ông Phùng Chí Kiên thảng thốt reo lên:

- Anh…!

Cho đến lúc ấy, cũng chỉ một mình ông Phùng Chí Kiên biết Bác là Nguyễn Ái Quốc, là Lý Thụy.

Những năm 1925, 1927 ông Phùng Chí Kiên đã được Bác Hồ kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được theo học một khóa “Việt Nam đặc biệt Huấn luyện Ban”, được Bác giới thiệu vào Học tại viện Quân sự Hoàng Phố cùng với ông Nguyễn Sơn, ông Lê Thiết Hùng, rồi được Bác giới thiệu vào học Trường Đại học Quân sự ở Mát - xcơ - va.

Trước đây một tháng, ông Phùng Chí Kiên đã đi Quý Dương (Quý Châu) đón Bác nhưng không gặp.

Trần tiên sinh, Vương tiên sinh là danh tính Bác thường dùng đến khi Bác về nước (2/1941). Ở Pắc Bó, Bác có tên mới là già Thu. Người cận vệ trung thành của Bác là Nghĩa (ông Phùng Thế Tài) cũng chỉ biết Bác là cụ Vương, Cụ Trần hoặc là cụ Thu.

Một hôm Nghĩa hỏi già Thu:

- Thưa cụ, sao mãi không thấy cụ Nguyễn Ái Quốc về nước?

Bác hóm hỉnh trả lời:

- Chú muốn gặp cụ Nguyễn Ái Quốc à? Chắc Cụ ở gần đâu đây thôi.

Trước và sau Hội nghị Trung ương 8 khóa 1, chỉ có các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, Vũ Anh là biết được tên thực của Bác.

Sau Hội nghị Trung ương 8, bà Trương Thị Mỹ (sau này là Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) được Trung ương cử gửi mật thư của trung ương lên già Thu. Bà nhớ lại:

- … Một lát sau, “ông Ké” ra lán gặp tôi và tự giới thiệu: “Tôi là người liên lạc của già Thu! Cô cứ giao thư của trung ương cho tôi, tôi sẽ chuyển lên già Thu…”

Từ đó đến khi mãn khóa học, bà Trương Thị Mỹ không được gặp già Thu nhưng bà lại được “người liên lạc của già Thu”, “ông Ké” đến giảng bài. “Ông Ké” giảng đến đâu hiểu đến đó, thấm đến đó.

Mãn khóa học, bà Mỹ trở về hoạt động tại Hoài Đức - Hà Đông. Tháng 8/1945 bà lãnh đạo quần chúng giành chính quyền cách mạng tại Hoài Đức. Đêm 1/9 rạng sáng 2/9, bà náo nức dẫn đầu Đoàn đại biểu quân và dân Hoài Đức trong đội hình tỉnh Hà Đông ra Hà Nội tham dự lễ Độc lập. Bà đứng gần lễ đài, khi loa phóng thanh vang lên giới thiệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, bà bàng hoàng cảm động ứa nước mắt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Cha già dân tộc là “người liên lạc của già Thu” bà đã được gặp ở Lam Sơn (địa điểm lớp học).

Vậy già Thu đổi tên là Hồ Chí Minh từ bao giờ?

Ông Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ kể lại:

… Vào khoảng cuối tháng 6/1942, tại Pắc Bó, ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị hành trang cho Bác và ông Lê Quảng Ba đi Trùng Khánh (Trung Quốc) để hội đàm với ông Chu Ân Lai và chính phủ Trung ương Quốc Dân Đảng. Ngoài quần áo, tiền đi đường, ông Vũ Anh còn chuẩn bị cho Bác những giấy tờ cần thiết theo chỉ dẫn của Bác:

- Danh thiếp mang tên Bác là Hồ Chí Minh, dưới hàng tên là hàng chữ “Phân hội Việt Nam Hội Quốc tế chống xâm lược.

- Danh thiếp mang tên Bác là Hồ Chí Minh, dưới hàng tên là hàng chữ “ký giả Thông tấn xã Quốc tế”.

- Giấy giới thiệu của “Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội” (Việt Minh) và giấy giới thiệu của “Phân hội Việt Nam Hội quốc tế chống xâm lược”.

- Để có dấu đóng vào giấy giới thiệu tôi tìm những viên đá mềm mài nhẵn rồi khắc hai con dấu tròn: một con dấu của Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh); một con dấu của Phân hội Việt Nam Hội quốc tế chống xâm lược. Dấu khắc tay, nhưng nét chữ rất gọn, sắc.

- Vậy là từ đó Bác có tên là Hồ Chí Minh. Đây là điều khẳng định. Bởi ngày 19/5/1941 khi Bác ra Lời kêu gọi quốc dân đồng bào nhân dịp thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh (Việt Minh), Bác vẫn ký là Nguyễn Ái Quốc.

- Năm 2001, tôi hành hương trên con đường từ Tịnh Tây - Quế Lâm - Liễu Châu để tìm dấu chân Bác khi nhà cầm quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc bắt và giải Bác qua 18 nhà giam. Tôi đã tìm đến nhà ông Từ Vỹ Tam ở Pá Mông, một trong những người anh em kết nghĩa với Vương tiên sinh (Bác Hai, Anh Hai). Bà Nông Mộng Ché, vợ ông Từ Vỹ Tam kể:

… Lần này (8/1942). Bác Hai sang đây có tên là Hồ Chí Minh. Nhưng chúng tôi vẫn cứ quen miệng gọi Bác là Bác Hai như mọi lần.

Khi được tin Bác bị bắt giữ, ông Lâm Bá Kiệt (ông Phạm Văn Đồng) đã cấp tốc gửi thư cho ông Hồ Học Lãm đang dưỡng bệnh ở Quế Lâm. Thư viết ngắn gọn: “Lão đồng chí Hồ Chí Minh đã mất tích ở biên giới Việt Trung. Đề nghị cụ tìm cách cứu!”.

Đọc thư, ông Hồ Học Lãm hiểu ra ngay: Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc!

Ông từng nói với bà Ngô Khôn Duy, hai con gái Hồ Diệc Lan, Hồ Mộ La và con rể Lê Quốc Vọng - chồng Hồ Diệc Lan (sau này Lê Quốc Vọng là tướng Lê Thiết Hùng, người đầu tiên được Hồ Chí Minh phong hàm tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng):

- Chỉ có Nguyễn Ái Quốc mới có đủ tài, đức cứu dân cứu nước ra khỏi họa nô lệ!.

Tôi hiểu: Bởi Bác là Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chí Minh.

(Tài liệu do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cung cấp).

PHẠM QUÝ THÍCH

Từ khóa:

Ý kiến của bạn