Giáo dục Phú Yên thời kỳ chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Giáo dục Phú Yên thời kỳ chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Đồng chí Phạm Cánh Thành ở Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, Nguyễn Khắc Loãn và Hoàng Luật về Ban Giáo dục Phú Yên. Đồng chí Nguyễn Thanh Hà (Nguyễn Áo) về Ban Tuyên huấn Sông Cầu, Văn phòng Tỉnh ủy, Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Khánh.

(Tiếp theo và hết)

Đồng chí Phạm Cánh Thành ở Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, Nguyễn Khắc Loãn và Hoàng Luật về Ban Giáo dục Phú Yên. Đồng chí Nguyễn Thanh Hà (Nguyễn Áo) về Ban Tuyên huấn Sông Cầu, Văn phòng Tỉnh ủy, Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Khánh.

Tỉnh ủy cử 4 giáo viên đi học khóa 2 Trường trung cấp Sư phạm Khu V gồm: Lê Đình Chí, Đỗ Vĩnh Tân, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Ngọc Trân.

Tỉnh mở trường cấp 1 ở Đồng Xuân, giáo viên là đồng chí Nguyễn Minh.

tt120721.jpg

Một lớp học trong kháng chiến - Ảnh: Tư liệu

Trường Sông Cầu: giáo viên Nguyễn Cao Khoa bị địch bắt, sau về công tác ở Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND TX Tuy Hòa.

Vùng giải phóng (vùng đỏ) miền núi ngày càng mở rộng, thiếu giáo viên người địa phương.

Tháng 2/1966, Tỉnh ủy quyết định thành lập “Trường dân tộc nội trú” dành cho con em người dân tộc thiểu số do đồng chí La Mô Đức - dân tộc Chăm, Phó văn phòng Huyện ủy miền Tây làm hiệu trưởng ở buôn Tân Dú, giáp tỉnh Gia Lai.

Trên cơ sở Trường dân tộc nội trú tỉnh, Tỉnh ủy quyết định thành lập Trường sư phạm miền núi tỉnh vào tháng 6/1967 và quyết định cử đồng chí Đào Thế Lữ - Trưởng tiểu ban Giáo dục tỉnh làm hiệu trưởng. Đồng chí E Ban Thương - người Ba Na, quê xã Phú Mỡ, giáo viên cấp 2 tập kết về làm hiệu phó. Thầy Y Niêng làm giáo viên với một lớp 30 giáo sinh. Ban Tài mậu tỉnh cấp kinh phí cho trường hoạt động. Trường phải sản xuất 3.000 gốc mì/người/năm và phát rẫy, tỉa lúa để tự túc một phần lương thực.

Trường dạy văn hóa đến lớp 3, lớp 4 mới dạy phương pháp sư phạm, cho đi dạy 2,3 năm rồi trở lại trường sư phạm bổ túc thêm. Trường đã đào tạo 100 giáo viên. Trường sư phạm miền núi là tiền thân của Trường cao đẳng sư phạm, đại học ngày nay.

Trước tình hình khó khăn do chiến tranh, năm 1967 Tỉnh ủy Phú Yên đã đề ra phương châm “Dân bám đất, giáo dục bám dân, giáo viên bám trường lớp”.

Ngày 3/2/1969 tại núi Hòn Ngang, xã Sơn Long, huyện Sơn Hòa, tỉnh đã tổ chức Đại hội thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng (UBNDCM) để quản lý các vùng giải phóng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng, huy động nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến trong tình hình mới. Đồng chí Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy được bầu làm chủ tịch, đồng chí Cao Xuân Thiêm, Bá Nam Trung làm phó chủ tịch. Các đồng chí: Nguyễn Thị Điểm, Nguyễn Hoài Nam, Trần Đình Quảng, Lê Duy Tường làm ủy viên.

Ngày 19/5/1969, UBNDCM tỉnh khai giảng Trường bổ túc văn hóa tỉnh (BTVH) tại Cà Te, Khu VII Gia Lai, vùng giáp ranh với Phú Yên. Khóa đầu tiên có 41 học viên chia làm hai lớp (lớp 2 và 3). Hiệu trưởng là thầy Nguyễn Thịnh (Bốn Xuân) kiêm Bí thư Đảng ủy trường. Từ năm 1972, thầy Nguyễn Châu, Ủy viên Ban Giáo dục tỉnh làm hiệu trưởng. Trường có 6 giáo viên: Hoàng Bé, Nguyễn Văn Diện, Lê Thanh Khuyến, Trần Văn Luyến, Đỗ Ngọc Nhung, Nguyễn Thịnh. Y tá là cô Nguyễn Thị Nở, thủ quỹ là cô Nguyễn Thị Nhiệm, quản lý là thầy Nguyễn Chạm.

Năm 1973, tỉnh điều đồng chí Nguyễn Châu về làm ủy viên Ban Giáo dục, sau đi tiếp quản Củng Sơn. Đồng chí Nguyễn Thịnh làm quyền hiệu trưởng.

Trường dời về Phước Tân, Hòn Rùa, vùng 1 xã An Lĩnh, Sông Cầu, Đông Tác, thị trấn Phú Lâm: tiền thân của Trung tâm giáo dục thường xuyên ngày nay (theo ý kiến đồng chí Đào Tấn Lộc, Bí thư Tỉnh ủy).

Năm 1970, UBNDCM huyện Tuy An quyết định mở Trường BTVH Tuy An với 5 lớp, hàng trăm học viên do đồng chí Nguyễn Thị Hoàng Lan làm hiệu trưởng (sau là Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Yên, về hưu). Các giáo viên: Võ Thị Kim Sinh, Biện Trèo, Trần Quảng Văn (sau là Phó chủ tịch UBMTTQ Việt Nam huyện Tuy An)...

Năm 1971, sau chiến tranh xuân Mậu Thân 1968, phong trào cách mạng ở Phú Yên ngày càng mở rộng, đòi hỏi phải mở trường. Tỉnh ủy điều đồng chí Nguyễn Chu, Ủy viên Ban thường vụ Đảng ủy Dân Chính Đảng tỉnh, Ủy viên Ban tuyên huấn tỉnh về làm Phó trưởng Tiểu ban Giáo dục tỉnh. Sau này đồng chí Đào Thế Lữ đi miền Bắc chữa bệnh, UBNDCM tỉnh đổi là Ban Giáo dục Phú Yên, gồm các đồng chí sau:

- Đồng chí Nguyễn Chu: Trưởng ban;

- Đồng chí Nguyễn Cách: Phó trưởng ban;

- Các đồng chí: Nguyễn Châu, Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Vĩnh Tân: là ủy viên

- Đồng chí Đỗ Vĩnh Tân kiêm Bí thư Đảng ủy giáo dục tỉnh.

Các cán bộ văn phòng gồm: Ngô Trọng Cảnh, Lê Đình Chí, Nguyễn Thị Chiếm, Nguyễn Quý Cương, Vũ Nam Hải, Băng Sơn, Lê Xuân Ngọc, Phan Thị Kim Sang, Nguyễn Thị Nhiêm, Võ Thị Minh Nguyệt, Trần Thị Hoài Phương, Nguyễn Thành Quang, Nguyễn Thị Kim Thoa, Huỳnh Xuân, Nguyễn Thị Mỹ Xuyến...

Tháng 6/1971, UBNDCM tỉnh Phú Yên ra quyết định thành lập trường sư phạm sơ cấp đồng bằng tỉnh tại buôn Ma Hơ, xã Song Hà, bên bờ sông Hà Đan, thượng nguồn sông Kỳ Lộ, huyện Sơn Hòa. Tỉnh điều đồng chí Hà Minh Sơn, người xã Hòa Xuân phụ trách xây dựng trường. Tháng 11/1971, đồng chí Nguyễn Cách, Phó ban Giáo dục tỉnh làm hiệu trưởng. Các giáo viên: Dương Ngô Cảnh, Nguyễn Cửu Đỉnh, Chu Xuân Oanh, Hà Minh Sơn, Nguyễn Đình Thìn là Bí thư chi bộ trường. Rồi thầy Trần Văn Luyện, Bí thư chi bộ trường sau quyền Hiệu trưởng Lê Văn Tuân. Năm 1972 thêm đồng chí Ngô Hải Loan. Trường có tổ may quần áo cho giáo sinh, tỉnh tuyển 21 giáo sinh (4 em chưa biết chữ, 7 em lớp 1, 6 em lớp 2 và 4 em lớp 3) vào học 4 năm với yêu cầu là có trình độ văn hóa cấp 2 và một số kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ để ra dạy ở trường cấp 1 vùng giải phóng, giáo viên và giáo sinh vừa dạy vừa học, vừa lao động sản xuất lúa và 3.000 gốc mì/người/năm tự túc một phần lương thực thực phẩm vừa bảo vệ trường chiến đấu chống giặc. Trường phải di chuyển địa điểm 5 lần: Ma Hơ, suối Rễ (xã Sơn Hội), vùng 6 (An Xuân), căn cứ của huyện Tuy An (vùng đỏ), suối Rễ, mỗi lần dời là một lần xây dựng lại cơ sở, vất vả, gian khổ nhất là lúc ở vùng 6 (An Xuân). Tháng 10/1972, địch càn đốt trường, đốt gần 6 lần gạo và một kho thực phẩm của trường. Sáu tháng sau đó, mỗi ngày mỗi thầy hoặc trò chỉ ăn 100g gạo/ngày và độn thêm chuối, sung, rau màu. Có 1 giáo viên và cháu Nga chết vì bệnh, 3 giáo sinh hy sinh trong lúc chống địch càn gồm: Hồ Long Đức (xã Sơn Thành), Lương Thị Hoa (xã Sơn Long) và Phan Thị Hoa (xã Sơn Xuân).

Tuy đầu vào trình độ giáo sinh còn yếu, điều kiện ăn uống rất kham khổ nhưng giáo viên và giáo sinh vẫn duy trì được trong mọi tình huống, quyết tâm dạy tốt, học tốt cho đến ngày giải phóng Phú Yên dời về Trường cấp 2,3 Sông Cầu, có điều kiện trường gấp rút hoàn thành việc dạy và học. Đến 30/9/1975 đã làm lễ ra trường cho 27 giáo sinh khóa sư phạm đầu tiên của tỉnh với tỉ lệ 20% khá, 80% đạt yêu cầu. Đa số các giáo sinh này đã trở thành cán bộ cốt cán của các cơ sở giáo dục, các trường học, các địa phương, các cơ quan ban ngành: Đài phát thanh tỉnh, Ban tuyên giáo tỉnh...

- Nguyễn Thị Kim Cúc, Hiệu phó Trường Chính trị tỉnh, nghỉ hưu;

- Nguyễn Thị Thanh Chúc, thương nghiệp Phú Khánh, nghỉ hưu;

- Lưu Sĩ Hiền, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh Phú Yên;

- Nguyễn Văn Hiền, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Bí thư Đảng ủy khối Các cơ quan tỉnh Phú Yên;

- Ngô Thị Ngọc Liên, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Hòa Bình 2;

- Ngô Thị Nga, trung tá Công an Phú Yên;

- Thạc sĩ Trịnh Thị Nga, nguyên Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội khóa XII;

- Lê Thị Kim Sang, nguyên giảng viên Trường Chính trị tỉnh;

- Phan Thị Sang, nguyên cán bộ ngoại thương TX Tuy Hòa;

- Nguyễn Sí, Phó bí thư Đảng ủy khối Các cơ quan tỉnh;

- Nguyễn Văn Tân, Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy;

- Kiều Minh Thế, nguyên Trưởng phòng kế hoạch huyện Tuy Hòa;

- Tạ Thị Điệp, nguyên giáo viên Trường tiểu học Phú Lâm;

- Nguyễn Ngọc Tưởng, nguyên Chánh văn phòng Huyện ủy Sơn Hòa;

- Nguyễn Ngọc Tứ, Phó chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh;

- Lê Thị Thanh Xuân, Ủy viên Ban thường vụ Huyện ủy Sơn Hòa, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Sơn Hòa;

- Đào Hải Yến, Phó ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên

Năm 1971, theo đề nghị của Ban giáo dục tỉnh, UBNDCM Phú Yên quyết định mở trường phổ thông nội trú tại Phước Tân do đồng chí Đỗ Vĩnh Tân ủy viên Ban Giáo dục tỉnh làm hiệu trưởng. Các giáo viên: Lê Xuân Ngọc, Nguyễn Chánh Viên. Có tổ may quần áo cho thầy và trò, trường có 3 lớp với 30 học sinh, thầy và trò cùng sản xuất 3.000 gốc mì/năm/người tự túc một phần lương thực. Đến ngày 1/4/1975, trường đã sát nhập với Trường BTVH tỉnh.

Tháng 6/1972, Ban Giáo dục Phú Yên cử 8 cán bộ và học sinh có trình độ văn hóa bán phần tú tài ra học khóa 3 Trường trung cấp sư phạm Liên khu V và đào tạo giáo viên cấp 2 để về mở trường cấp 2 ở các huyện. Đa số các giáo sinh ngày nay đã trở thành cán bộ cốt cán của ngành giáo dục như:

- Lương Triều Dương, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh;

- Ngô Thị Nga, công tác ở Sở Công an Phú Yên;

- Võ Thị Minh Nguyệt, về hưu ở Nha Trang;

- Đỗ Văn Nhung, giáo viên Trường BTVH tỉnh;

- Nguyễn Đình Thìn, Trưởng đài truyền thanh TX Tuy Hòa, nghỉ hưu;

- Nguyễn Văn Tá, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Yên;

- Châu Lý Vân, Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Trãi;

- Nguyễn Xuân Vương, cán bộ hưu trí ở Hòa Vinh.

Ngoài ra tỉnh còn nhìn xa trông rộng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc nên đã cử nhiều con em Kinh và dân tộc thiểu số ra miền Bắc và các nước học tập để chuẩn bị quy hoạch cán bộ cho tương lai khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Nhiều đồng chí là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ. Chỉ nêu lên một số đồng chí sau:

- Anh hùng khoa học, tiến sĩ Thái Phụng Nê (thủy điện), nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Năng lượng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên;

- Nhà giáo ưu tú, tiến sĩ Nguyễn Xuân Đàm, nguyên Tỉnh ủy viên, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Yên;

- Bá Thanh Kia, nguyên Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh Phú Yên;

- Tiến sĩ Phan Thị Phượng.

Thầy và trò cùng tải đạn, khiêng thương, tiếp quản các công sở ngụy trong thời gian giải phóng Phú Yên.

Tóm lại, trường đóng ở địa phương nào cũng nhờ các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể, bộ đội và nhân dân tận tình ủng hộ công của xây dựng trường lớp, cưu mang giúp đỡ nơi ăn chốn ở cho thầy và trò.

Hoạt động giáo dục ngày càng phát triển mặc dù trong hoàn cảnh Mỹ ngụy đánh phá ác liệt, đốt trường, giết hại giáo viên và học sinh. Hễ địch càn là nghỉ học, hết càn là học lại. Địch đốt trường, thầy trò xây dựng lại.

Sau Chiến tranh cục bộ 1966-1967, cuộc chiến tranh ngày càng khốc liệt. Địch thường xuyên bắn phá nên trường phải di chuyển luôn. Di chuyển đến đâu thầy trò cùng bắt tay ngay vào việc xây dựng lại trường lớp. Vừa phát rẫy tỉa lúa bắp, sắn mì vừa tổ chức cuộc sống để dạy học. Không khí chiến tranh luôn luôn căng thẳng nhưng thầy trò vẫn lạc quan cách mạng, vừa học vừa hát, tiếng hát át tiếng bom, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng do Trung ương, Đảng lãnh đạo.

Nhà giáo ưu tú NguyễnChu

Nguyên Trưởng ban Giáo dục Phú Yên

Từ khóa:

Ý kiến của bạn