Trong sử vàng của Đảng bộ Phú Yên trang trọng ghi tên đồng chí Trần Toại là Bí thư Tỉnh ủy năm 1931.
![]() |
Phần đầu lời hiệu triệu bằng chữ Hán
|
Trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Trần Toại đã tổ chức nhiều hoạt động xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức Đảng và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh in đậm dấu son trong lịch sử Đảng bộ tỉnh.
Đồng chí bị địch truy bắt tại Phú Yên và bị lưu đày ở nhiều nhà tù. Đầu năm 1945, đồng chí ra tù, tham gia khởi nghĩa Ba Tơ và lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám tại quê nhà Quảng Ngãi. Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí Trần Toại đảm nhận trọng trách Chủ tịch UBND cách mạng tỉnh Quảng Ngãi và bị bạo bệnh qua đời năm 1948 do hậu quả sức khỏe suy kiệt trong tù hàng chục năm.
Là một trí thức, đồng chí Trần Toại có nhiều tác phẩm tuyên truyền vận động cách mạng. Tổng tập văn học Việt Nam (tập 31) xuất bản tháng 11/1981 có tuyển nhiều tác phẩm của chiến sĩ cộng sản Trần Toại như “Phụ nữ phất cao cờ cộng sản”, “Cuộc biểu tình đầu tiên ở Quảng Ngãi”, “Chống chủ trương kéo cờ Quy Thuận” và đặc biệt là trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, đồng chí có bài “Hiệu triệu đồng bào đả đảo Pháp đế thư” (Thư hiệu triệu đồng bào đánh đổ đế quốc Pháp) được xem là một áng văn chương độc đáo.
Báo Phú Yên trân trọng giới thiệu đến bạn đọc thư Hiệu triệu này để bày tỏ lòng tri ân một bậc tiền bối cách mạng đã có công lớn với Đảng bộ Phú Yên.
PHAN THANH (sưu tầm và giới thiệu)
THƯ HIỆU TRIỆU ĐỒNG BÀO ĐÁNH ĐỔ ĐẾ QUỐC PHÁP
Sự thế đến cùng;
Thời cơ sắp tới.
Đau đớn bấy! Dân ta điêu đứng khổ biết bao nhiêu!
Cay nghiệt thay! Chúng nó hoành hành tội không thể tả.
Lòng tham chưa đủ;
Chuỗi ác đã đầy.
Căm giận chứa chan;
Kêu trời nguyền rủa.
Hỡi kìa người Pháp quốc!
Thù gì đất Việt
Trùng dương bao cách trở, kẻ thực dân vượt tới xâm lăng;
Đông Hải lắm tiền tài, túi vô để tóm thu vơ vét (1).
Coi dân ta như trâu ngựa;
Bắt dân ta làm tôi đòi.
Bảy mươi năm đô hộ, thuế nặng sưu cao;
Hai mươi lăm triệu sinh linh, nạo xương hút tủy.
Đắp đường sá, xây cống cầu cốt để thông thương cơ khí;
Mở nhà thương, lập trường học chẳng qua ngu hoặc nhân dân.
Nam Bắc cắt giao, lợi quyền nắm cả;
Trung Kỳ bảo hộ, thanh thế rỗng không.
Bán ngục, mua quan, lũ dua bợ
Thuế rừng, thuế biển, dân đói nghèo lao động mất kế làm ăn.
Trưng cầu quá khắc;
Bóc lột càng sâu.
Ta thì rách áo đói cơm;
Nó lại cá ngon thịt béo.
Ông già, trẻ nít, không chỗ náu nương;
Bỏ vợ, chôn con, nghẹt đường sinh sống.
Ta đây có tội tình gì;
Lâu nay chịu thảm họa ấy.
Ngắn cổ tỏ cùng ai;
Đè đầu nặng hơn nữa.
Thả lểnh giống sài lang, lung tung kẻ cướp;
Xây nhiều đài pháo đạn, ngang dọc đường xe.
Ra pháp lệnh bạo tàn, khủng bố quần chúng;
Trương ngọn cờ quy thuận, phỉnh phờ nhân dân.
Than ôi!
Hết sức thảm thương!
Vô cùng uất hận.
Kìa gian mưu rất đáng buồn cười;
Nhưng công lý không hề mai một.
Binh thóc nhà Tần, Lưu Quý vùng lên miền Tứ Thượng (3);
Nong sông ai chủ, Lê Lợi đứng dậy ở Lam Sơn.
Bỏ kẻ ác, về với người nhân, đó là thường lý;
Thờ quân thù, quên Tổ quốc, chớ có quan tâm.
Hiện nay:
Các nước văn minh đều đề xướng bình quyền;
Thế giới liệt cường có liên đoàn Cộng sản.
Vận hội đang buổi đại đồng, đâu nỡ để người đi ta đứng;
Chính phong trào tranh đấu, đừng rằng mạnh được yếu thua.
Hỡi các vị văn hào, nêu cao đại chí;
Hỡi các nhà tri thức, mở rộng hùng tâm.
Chớ thấy tài lợi trước mắt, dò tình hình hãm hại đồng bào (4);
Chớ ôm mưu chước trong lòng, đem tài cán làm tôi quân địch.
Lấy đạo đức hóa người ngu dốt;
Dùng văn minh thay lối quê mùa.
Đem học ra làm;
Liều mình cho nước.
Hễ có chí dám cầm siêu phi ngựa, sợ gì không gươm bén giáp bền;
Hễ có tài hay đại kiếm trường thương, lo gì thiếu đạn rừng súng bể.
Nguyện:
Phấn đấu một lòng một dạ, cứu nước lửa cho sinh dân;
Giải trừ muôn đắng ngàn cay, mưu lợi quyền cho quần chúng.
Chứa chan tâm huyết một bầu, cho ra khẩn cấp;
“Đánh đổ đế quốc” bốn chữ, ghi vào não cân.
Xót dạ nghiến răng, không một phút bỏ lơ nhiệm vụ;
Đau đầu nhăn trán, kính đôi lời tỏ với bà con.
TRẦN TOẠI
(Nghĩa Bình – Phú Yên, 1930 – 1931)
_______________
(1) Túi vô để: túi tham không đáy.
(2) Lũ dua bợ: lũ xu nịnh giặc Pháp.
(3) Chỉ Bái Công Lưu Quý nổi dậy từ miền sông Tứ.
(4) Dò: dò xét, làm gián điệp cho địch.
|