Bác Hồ với các lực lượng vũ trang

Bác Hồ với các lực lượng vũ trang

Trong di sản lý luận Hồ Chí Minh, tư tưởng xây dựng đội quân vũ trang cách mạng của nhân dân làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một hệ thống quan điểm về quân sự, quốc phòng… và hình thành, phát triển gắn liền với quá trình thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trong di sản lý luận Hồ Chí Minh, tư tưởng xây dựng đội quân vũ trang cách mạng của nhân dân làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một hệ thống quan điểm về quân sự, quốc phòng… và hình thành, phát triển gắn liền với quá trình thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngay khi tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, trong Chính cương vắn tắt, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ghi rõ nhiệm vụ của Đảng cần phải tổ chức đội quân công nông để đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, thành lập chính phủ công nông.

Bac-091222.jpg

Bác Hồ nói chuyện với các chiến sĩ tại Đền Hùng tỉnh Phú Thọ.

Tháng 2/1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tháng 5/1941 Bác chủ tọa hội nghị Trung ương 8 đã đề nghị tập trung toàn lực giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Việt Minh, thành lập các đội du kích và xây dựng căn cứ địa, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, Bác và Trung ương Đảng chủ trương chuyển từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang và kết hợp cả hai hình thức để chống phát xít, tổ chức quần chúng rộng rãi và tiến hành huấn luyện quân sự và vũ trang cho quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang của nhân dân, xây dựng căn cứ địa cách mạng, phát động chiến tranh du kích, thực hiện khởi nghĩa từng phần, chớp thời cơ tổng khởi nghĩa khắp thành thị, nông thôn trong cả nước.

Từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng phải có lực lượng vũ trang chiến đấu với bạo lực phản cách mạng, năm 1941 Bác ra chỉ thị tổ chức đội tự vệ vũ trang ở Cao Bằng. Người trực tiếp lựa chọn nòng cốt và biên soạn tài liệu về chiến thuật du kích để huấn luyện cho đội tự vệ các địa phương, huấn luyện cán bộ quân sự… Năm 1943, khi thoát khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Bác đã tìm mọi cách đưa một số thanh niên được cử đi học quân sự ở Trung Quốc về tăng cường cho lực lượng vũ trang trong nước. Và khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân những người này được chọn làm cán bộ nòng cốt của Đội. Cuối năm 1944, dự báo cuộc tổng khởi nghĩa đang đến gần, Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thực hiện, cùng với đội Cứu quốc quân, Du kích Ba Tơ là tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay.

Chỉ thị của Bác thành lập quân đội nhân dân có ý nghĩa như cương lĩnh quân sự của Đảng ta, bao gồm những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng. Đó là cuộc kháng chiến toàn dân nên phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân, những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng vũ trang và phương châm xây dựng ba thứ quân của lực lượng vũ trang, phương thức kết hợp hoạt động quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang, nguyên tắc và phương châm tác chiến, chiến thuật du kích của lực lượng vũ trang…

Tư tưởng xuyên suốt trong chỉ thị của Bác có thể nhận thấy rằng, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng là phải dựa vào nhân dân, dựa vào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Vấn đề cơ bản trong xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang mà Bác đặt lên hàng đầu là tăng cường bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, lực lượng vũ trang phải gắn bó máu thịt với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần huấn thị cho lực lượng vũ trang và nhấn mạnh “Phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải đảm bảo sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ; phải triệt để giữ gìn kỷ luật, tự giác về mặt quân sự và về mặt chính trị. Vì vậy phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội và phải thực hiện dân chủ trong bộ đội” (Hồ Chí Minh toàn tập, T7, tr14).

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh để có lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh thì phải chăm lo xây dựng toàn diện cả ba thứ quân, trong đó bộ đội vừa là đội quân chiến đấu giỏi, vừa là đội quân công tác tốt mà công tác dân vận là hàng đầu và thường xuyên. Kỷ niệm một năm ngày thành lập quân giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh huấn thị: phải tăng cường huấn luyện quân sự, kỹ thuật, chiến thuật, nâng cao thể lực và trình độ văn hóa, phải phát triển cái kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng. Phải rèn luyện cho bộ đội tác phong chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, mưu trí dũng cảm, thắng không kiêu, bại không nản, tuyệt đối giữ bí mật. Người yêu cầu cán bộ quân đội phải gương mẫu, thương yêu binh sĩ như ruột thịt “từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên” (Huấn thị tại hội nghị kiểm thảo chiến dịch đường 18, tháng 5/1951).

Hơn 25 năm kể từ khi chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang nhân dân, trên cương vị cao nhất lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc Bác luôn dành muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể bộ đội. Dù bận nhiều công việc Người vẫn dành thời gian chăm sóc và giáo dục, rèn luyện các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong các chiến dịch Bác đi thăm các đơn vị bộ đội, đốc thúc công tác hậu cần, dự các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, tổng kết rút kinh nghiệm chỉ đạo, tác chiến… Người viết thư khen, tặng cờ thi đua, biểu dương các đơn vị, cá nhân lập công xuất sắc và phê bình những việc chưa tốt của cán bộ quân đội. Thông qua những việc làm cụ thể và bằng tấm gương của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục cho lực lượng vũ trang và nhân dân ta phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự lực kháng chiến, chống tư tưởng muốn đánh mau thắng mau hoặc bi quan, sợ địch cũng như chủ quan khinh địch…

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người hiểu thấu những hy sinh, gian khổ của lực lượng vũ trang phải chiến đấu với quân xâm lược có trang bị vũ khí hiện đại và tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn. Trong những năm kháng chiến gian lao, thiếu thốn trăm thứ, khó khăn mọi bề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Người động viên toàn dân, kêu gọi toàn dân chăm lo cho bộ đội và giúp đỡ thương binh, bệnh binh và gia đình các thương binh, liệt sĩ. Bác thường tặng quà thương binh, bộ đội tác chiến, bộ đội phòng không bằng tiền lương của Bác và những món quà mọi người tặng Bác. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Chính phủ và nhân dân ta phải làm tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt sĩ; đối với những cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân đã chiến đấu, công tác tỏ ra dũng cảm còn sức khỏe thì phải chăm lo đào tạo thành đội quân chủ lực trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay cách mạng nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là phải bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, lợi ích của quốc gia, dân tộc… do đó phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một lực lượng chính trị, một lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do đó cần chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Trong công việc này, chúng ta cần thấm nhuần hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, lấy nhân tố con người, nhân tố chính trị, nhân tố tinh thần, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh quốc tế để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, xứng danh bộ đội Cụ Hồ.

TS PHẠM VĂN KHÁNH

Từ khóa:

Ý kiến của bạn