Việt Nam quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan

Việt Nam quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan

Ngày nay nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN hoàn toàn là một tất yếu khách quan. “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.

Ngày nay nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN hoàn toàn là một tất yếu khách quan. “Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”(1). Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:

May-cong-nghiep-090901.jpg

Kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo những bước đi vững vàng cho nền kinh tế Việt Nam . Trong ảnh: May hàng xuất khẩu tại một doanh nghiệp ở TP Tuy Hòa     - Ảnh: M.NGUYỆT

Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loài người giữa các phương thức sản xuất (PTSX) cũ và PTSX mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ (TKQĐ). Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các PTSX. Song, không phải PTSX này kết thúc hoàn toàn rồi mới nảy sinh PTSX khác. Giữa PTSX cũ bị thay thế và PTSX mới sẽ thay thế bao giờ cũng có một TKQĐ.

Thứ hai, cho đến nay, lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 PTSX. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các PTSX từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài PTSX nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. Từ thực tiễn lịch sử xã hội có thể rút ra ba nhận xét: một là, khi vạch ra một sơ đồ tiến hóa xã hội từ PTSX thấp lên PTSX cao hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời gian các trình độ phát triển của các nền văn minh nhân loại nằm rải rác trong không gian. Hai là, khi một PTSX đi đến chỗ kết thúc, thì xã hội có thể tiến lên một trong nhiều PTSX cao hơn, chứ không phải nhất thiết chỉ tiến lên một PTSX cao hơn.  Ba là, nhận xét có tính chất khái quát: xã hội loài người nói chung thì nhất định phải trải qua cả năm PTSX, nhưng từng nước cụ thể thì không nhất thiết phải tuân thủ trải qua cả năm PTSX, mà có thể bỏ qua một  hoặc vài PTSX để tiến lên PTSX cao hơn, tùy thuộc điều kiện lịch sử - cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan. Lênin viết “... tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ, mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”(2).

Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi: một là, trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay nước ta có những điều kiện khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, làm cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thế giới đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế tạo khả năng hiện thực khách quan để nước ta tranh thủ về vốn, về vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, nếu chúng ta thực hiện tốt đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - đó là chế độ XHCN. Với xu thế lịch sử như vậy đã xuất hiện con đường bỏ qua TBCN tiến lên CNXH. Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là điều kiện tiên quyết, có tính chất quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta. TKQĐ là thời kỳ mà trình độ kinh tế - xã hội chưa vượt ra khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính quyền của giai cấp công nhân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi của Chính sách kinh tế mới (NEP) trong TKQĐ lên CNXH ở nước Nga Xô Viết do Lênin vạch ra. Việc thực hiện NEP đã đưa lại những thành tựu to lớn. Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự lựa chọn một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu khách quan trên, nền kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng phát triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây: Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị. Nhưng, đi theo hướng này, CNTB ra đời, thì dẫn đến những hậu quả sau: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột.

Đi theo con đường TBCN thì không thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn nó cũng phải được thay thế bằng một chế độ xã hội mới, mà giai đoạn đầu là CNXH. Chính TBCN cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật để chuyển sang CNXH. Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của dân, do dân và vì dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”(3). Những thành tựu đã đạt được qua gần hai mươi năm đổi mới đã chứng minh: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với tiến trình phát triển của thời đại chúng ta. Bởi lẽ: chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc lập, tự do cho dân tộc, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, Bác Hồ đã chỉ ra rằng: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.

Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(4). Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa PTSX cũ và PTSX mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là Nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của lao động xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho CNXH. Nghĩa là, dù nước ta không qua giai đoạn phát triển CNTB với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội thống trị, nhưng, về phương diện kinh tế phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Song, nhờ cách mạng khoa học - công nghệ, nhờ hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng, cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Hình thức kinh tế trung gian, quá độ điển hình - đó là CNTB nhà nước. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.

---------------------

(1)  Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb CTQG, H, 2001, tr.21-22.

(2)  Lênin, Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr.431.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb CTQG, H, 2001, tr.23.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NxbCTQG, H., 2001, tr.21.

PGS,TS VŨ VĂN PHÚC

Phó Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên

Từ khóa:

Ý kiến của bạn