50 năm trước (28/11/1964), bến Vũng Rô do Đảng bộ và quân dân Phú Yên dày công mở bến đã đón con tàu Không số đầu tiên (tàu 41) do anh hùng Hồ Đắc Thạnh - một người con ưu tú của quê hương Phú Yên làm thuyền trưởng.
Trong bản hùng ca chống Mỹ, chiến công mở bến Vũng Rô đón những con tàu không số mang tính huyền thoại, là biểu tượng tài trí và lòng quả cảm của quân và dân Phú Yên.
MỞ BẾN
Đầu tháng 7/1963, Bí thư Tỉnh ủy Trần Suyền nôn nao một niềm vui khó tả khi nhận được bức điện hỏa tốc của Khu ủy 5 yêu cầu Tỉnh ủy Phú Yên chọn người thạo vùng biển đưa ra miền Bắc để hướng dẫn tàu vào.
Đầu tháng 8/1963, Tỉnh ủy Phú Yên chọn lựa và cử 3 đồng chí Lê Kim Tự, Trần Kiên, Lê Xuân (quê ở xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa) lên đường ra Bắc. Đây là những đảng viên trung kiên am hiểu vùng biển quê hương như trong lòng bàn tay. Tháng 10/1963, Tỉnh ủy Phú Yên tiếp tục cử 3 đồng chí Trần Mỹ Thành, Phạm Văn Dợn (An), Ngô Dầu (quê ở Sông Cầu) vượt Trường Sơn ra Bắc.
Giữa năm 1964, ở Phú Yên, ta làm chủ được nhiều đoạn bờ biển dài hàng chục cây số… Trung ương và Khu ủy 5 chỉ thị Phân khu Nam, Tỉnh ủy Phú Yên chuẩn bị chọn bến bãi để tiếp nhận vũ khí Trung ương chi viện cho 3 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đắk Lắk bằng đường biển tại Phú Yên.
Đồng chí Trần Suyền - Ủy viên Thường trực Liên Tỉnh ủy 3, nguyên Bí thư Tỉnh ủy nhận được chỉ thị tìm phương án để giải đáp bài toán hóc búa mở bến ở đâu. Phân khu Nam phân công đồng chí Trần Suyền chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ trinh sát Phân khu Nam do đồng chí tham mưu phó trực tiếp phụ trách.
Điểm đầu tiên được khảo sát là thôn Từ Nham, xã Xuân Thịnh, huyện Sông Cầu. Tại đây địa thế biển tốt, cả thôn được giải phóng, cơ sở cách mạng được xây dựng từ sau năm 1954; nhân dân thuần, trong sạch; tổ chức Đảng, Đoàn tốt; địa hình như một đảo nhỏ, 3 bên đều biển, sau lưng là dãy núi cát cao che chắn, tàu nhỏ vào đậu ở bãi được. Nhưng nếu tiếp nhận ở đây thì việc vận chuyển vũ khí xa, phải qua quốc lộ 1, đến vùng căn cứ Thồ Lồ trong đêm không kịp, nơi chôn giấu cất tạm hàng tiếp nhận không bảo đảm vì toàn cát trắng, nhân lực vận chuyển không nhiều, nhân lực nơi khác đến không chỗ dung trú.
Theo lời kể của đồng chí Trần Suyền, giữa năm 1964, Trung ương đã cho cập vào bờ biển Từ Nham một tàu loại gỗ đánh cá. Tàu này chỉ đưa được vào bến 1 tổ điện đài, còn vũ khí không nhận được. 1 giờ sáng thuyền đã phải trở ra.
Đoàn khảo sát tiếp tục vào khu vực Vũng Rô Vũng Rô có nhiều ưu điểm:
Có vùng giải phóng nối liền từ Hòn Nhọn (huyện Sông Hinh) đến Đá Bia. Vũng Rô ở ngay dưới chân
núi Đá Bia. Đây là vùng biển tương đối sâu, tàu trọng tải lớn có thể cập sát bến, quanh Vũng Rô có dãy núi dài bao bọc. Bởi vậy, Vũng Rô bốn mùa lặng sóng. Dọc chân núi Đá Bia, viền theo mép Vũng Rô có nhiều bãi cát trắng mịn; có nhiều bãi khuất sau núi như bãi Chùa, bãi Chính, bãi Mù Ụ… Từ đèo Cả hoặc bót Pê-tí nhìn xuống không trông thấy.
Vũng Rô nối liền với căn cứ miền Đông huyện Tuy Hòa. Phía tây Vũng Rô có dãy núi Đá Bia, nhiều cây cối che khuất kéo dài đến thôn Lạc Long, xã Hòa Xuân, khu vực này có nhiều gành và gộp đá lớn có thể giấu hàng tấn vũ khí được. Có thể phân tán lực lượng dân công khuân vác, tạm trú ăn, ở dài ngày tại chỗ.
Nhưng ở Vũng Rô có nhược điểm:
Là chỉ cách Tỉnh đường của ngụy 10km đường chim bay. Ban chỉ huy Tỉnh đội cử đồng chí Lê Thanh Hải - cán bộ trinh sát Tỉnh đội bám tại thôn Phú Lạc (xã Hòa Hiệp) để tổ chức nắm địch trên bờ, dưới biển, trên không, thường xuyên báo cho Tỉnh đội, Tỉnh ủy.
Ban An ninh cử đồng chí Nguyễn Anh Hào và 2 cán bộ an ninh huyện là Nguyễn Yển và Trần Ngọc Xuân đến miền Đông phối hợp với Ban An ninh 3 xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Vinh, phối hợp với lực lượng vũ trang miền Đông thường xuyên hoạt động ở vùng này để bốc gỡ, đẩy đuổi bọn nghi tình báo, gián điệp do địch cài cắm trong dân, làm trong sạch địa bàn, bảo đảm bí mật hành lang.
Dự thảo và giáo dục nội quy giữ bí mật đi lại ban ngày lẫn đêm. Nắm và xét duyệt danh sách dự kiến huy động dân công và bố trí lực lượng Đảng, đoàn thể; quản lý chặt chẽ, giáo dục khi đến và khi hoàn thành về gia đình.
Trạm liên lạc huyện do đồng chí Nguyễn Bá Diệp phụ trách được tăng cường đủ 4 đồng chí cán bộ cho miền Đông - phân làm 2 tổ, tổ dưới đường quốc lộ 1 do đồng chí Trúc làm tổ trưởng, đồng chí Nhứt làm tổ viên, tổ trên đường quốc lộ 1 do đồng chí Mười Hẽ làm tổ trưởng, đồng chí Vỵ làm tổ viên. Hai tổ này có nhiệm vụ bám, nắm địch thường xuyên trên quốc lộ 1, tiết lộ để đưa hàng và khách qua đường, xóa dấu vết trên đường khi khách đã đi qua.
Tưởng niệm các liệt sĩ nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Mở đường Hồ Chí Minh trên biển - Ảnh: X.HIẾU |
CHUẨN BỊ SẴN SÀNG
Để đảm bảo đường sá thường xuyên thông suốt, trạm phải chuẩn bị nhiều đường bí mật:
Đường thứ nhất:
Từ bãi Chùa lên nam Đá Bia qua quốc lộ 1, lên hướng trại Thơm ra trại Gộp đến suối Cùng, Cỏ Ông (xã Hòa Thịnh).
Đường thứ hai:
Từ bãi Tiên xuyên lên bắc Đá Bia qua Hóc Mít của đường sắt qua đồng ruộng, qua quốc lộ 1, lên đồng Nẩy, đồng Khôn xuyên đường rừng lên suối Cùng, Cỏ Ông (xã Hòa Thịnh).
Đường thứ ba:
Đường đi ngoài đồng, cạnh xóm làng, từ xóm Mới - Lạc Long sang đầu thôn Phước Giang lên đường sắt (cầu đường sắt sông Tra) và ga Thạch Tuân, qua cạnh xóm Mỹ Khê lên núi Hiềm đến Hóc Môn - Nam Bình (xã Hòa Xuân) qua eo núi đồng Lão đến đồng Mọi (Hòa Tân). Nếu không thuận đi vào đồng Khôn về suối Cùng, Cỏ Ông.
Đường thứ ba này hoàn toàn đi vào ban đêm, ngoài đồng, rìa làng, không đèo, không dốc nên được sử dụng suốt đợt vận chuyển vũ khí Vũng Rô, các đường khác làm đường dự bị.
Tất cả các đường đầu mối đều quy về Hòa Thịnh. Vì Huyện ủy Tuy Hòa lúc bấy giờ đóng tại Hòa Thịnh, Phân khu Nam đóng tại Suối Phẩn (xã Hòa Mỹ) giáp với 3 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đắk Lắk. Núi liền núi, về đây không cách nào địch ngăn cản được. Đã chuẩn bị 2 hệ thống kho: Kho tạm dọc ven núi tại chỗ, phân tán cất giấu tạm và kho chính ở hậu cứ.
Kho tạm ven núi tại chỗ:
Khu vực suối Lim - làng Thượng có nhiều gộp đá dọc theo suối, tại đây vẫn còn vũ khí rơi rớt; Khu vực suối Môn (hang Vàng) có nhiều gộp đá ta, người ta xuống gộp có thể đi lạc, nhiều chỗ cất giấu.
Kho chính ở hậu cứ:
Kho ở Hậu cứ Hòa Thịnh: Cỏ Ông, suối Lạnh, suối Cùng có nhiều gộp đá;
Kho ở Hậu cứ Hòa Mỹ: Bến Đá, suối Phẩn do Quân khu quản lý;
Phục vụ cho lãnh đạo bến có đài 15 oát, có tổ cơ yếu 2 đồng chí (đồng chí Trần Sâm - tổ trưởng, đồng chí Trần Nộ - tổ viên).
Tổ điện đài có các đồng chí Lê Quang Ứng, Nguyễn Y làm báo vụ, đồng chí Tân và Xuân quay ga-gu-nô. Đài có nhiệm vụ chuyển và nhận 5 nơi: Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh. Hải quân), Liên khu 5, Phân khu Nam, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Phú Yên.
Lực lượng vận chuyển từ tàu xuống bến chủ yếu là lực lượng bộ đội tập trung, cán bộ, du kích xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, đảng viên, đoàn viên, một số cơ sở các thôn Lạc Long, Phú Lạc, Lò Ba; sau mở rộng thêm, huy động cả dân công và thuyền đánh cá của ngư dân trong vùng. Hàng từ bãi đưa vào kho tạm, kho chính.
Từ kho chính đưa về hậu cứ Hòa Thịnh, Hòa Mỹ chủ yếu là lực lượng 337, dân quân du kích, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, quần chúng cách mạng các xã trong huyện Tuy Hòa mà Hòa Xuân, Hòa Hiệp là 2 xã nòng cốt.
Từ giữa năm 1964, đồng chí Trần Suyền, Ủy viên thường trực Liên Tỉnh ủy 3 nắm một trung đội vũ trang về Hòa Xuân và Hòa Hiệp cùng với Tỉnh ủy Phú Yên, Huyện ủy Tuy Hòa và Chi bộ Hòa Xuân, Hòa Hiệp mở bến Vũng Rô, xây dựng kho tàng và căn cứ miền đông nằm trên địa bàn xã Hòa Xuân và chuẩn bị hành lang an toàn vượt qua quốc lộ 1 đường xe lửa và các đồn bót địch ở xã Hòa Xuân để vận chuyển vũ khí về tuyến sau chi viện cho chiến trường liên tỉnh.
Đầu tháng 11/1964, một đơn vị tập trung được thành lập gồm một trung đội của Phân khu Nam, trung đội tập trung miền Đông huyện Tuy Hòa và du kích xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp lấy phiên hiệu là K.60 do đồng chí Trúc Khuê làm chỉ huy trưởng, đồng chí Phạm Ân làm chính trị viên.
K.60 làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tàu, bảo vệ bến và hướng dẫn vận chuyển hàng chi viện ra tuyến sau. Ngoài dân công, một lực lượng thuyền máy từ Lò Ba đến Vũng Rô được huy động, trong đó có sự đóng góp tích cực lực lượng ghe thuyền đường sông của bà con thôn Phước Giang và Lạc Long.
Công tác bảo vệ và xây dựng tuyến hành lang an toàn vượt qua xã Hòa Xuân để vận chuyển vũ khí ra tuyến sau được gấp rút triển khai. Bót Pê-tí của địch nằm trên đỉnh đèo Cả như đôi mắt cú vọ ngày đêm rình mò vùng biển Vũng Rô. Một đội du kích xã Hòa Xuân nhận lệnh bao vây dài ngày bót Pê-tí, theo dõi chặt chẽ mọi hành động của địch, kiên quyết chặn đánh địch khi chúng lùng sục ra ngoài bót. Du kích Hòa Xuân phối hợp cùng trung đội bộ đội huyện Tuy Hòa bám địch ở Đại Lãnh, chuẩn bị sẵn sàng khi có lệnh tiêu diệt trung đội dân vệ đóng ở đây để thu hút địch, không cho chúng rảnh tay nhòm ngó Vũng Rô.
ĐÓN CHUYẾN TÀU ĐẦU TIÊN
Ngày 16/11/1964, tàu 41 anh hùng do đồng chí Hồ Đắc Thạnh - một người con ưu tú của quê hương Tuy Hòa làm thuyền trưởng đã xuất phát từ cảng Hải Phòng chở hơn 60 tấn vũ khí, thuốc chữa bệnh theo con đường mòn Hồ Chí Minh trên biển chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ.
Tàu đón 3 đồng chí quân giải phóng Phú Yên bổ sung xuống làm thủy thủ, đó là các đồng chí Lê Kim Tự, Nguyễn Văn Xuân và Trần Mỹ Thành.
18 giờ ngày 28/11/1964, tàu ta ở vào cự ly bán kính chiếu sáng của đèn Mũi Nạy. Lưới ngụy trang trên các ụ súng được tháo ra sẵn sàng chiến đấu. Phía mạn trái tàu, một hòn đảo nhỏ hiện rõ dần. Chính là hòn Nưa. Cửa Vũng Rô đã ở trước mắt.
Chiếc xuồng ba lá được thả xuống. Đồng chí thuyền phó cùng 2 thủy thủ mang theo vũ khí chèo vào bờ phải bãi Lau tìm bắt liên lạc. Toàn tàu lúc này mới thật sự yên lòng là mình đã vào đúng bến Vũng Rô.
Một chiếc ghe máy kéo theo 1 chiếc thuyền cập mạn tàu. Các đồng chí ở bến lên tàu. Phút đầu gặp gỡ mọi người vui mừng xúc động, ôm chầm lấy nhau, nước mắt chảy ròng, nghẹn ngào không nói nên lời.
Đồng chí Trần Suyền và các đồng chí ở bến bắt tay cán bộ, thuyền viên trên tàu. Thuyền trưởng trình bày với đồng chí Trần Suyền: Theo lệnh của cấp trên, tàu chỉ được ở lại bến bốc dỡ hàng đến 3 giờ là phải rời bến. Chiếc tàu Không số đầu tiên cập bến Vũng Rô an toàn ngày 28/11/1964. Ban chỉ huy bến và hơn 1.000 cán bộ đảng viên, bộ đội, du kích và nam nữ thanh niên xung phong chờ sẵn trên bờ vui mừng khôn xiết, ôm nhau tay bắt mặt mừng. Công việc bốc hàng được tiến hành hết sức khẩn trương.
Đồng chí Trần Suyền có ý kiến: Tàu chở 60 tấn vũ khí và trang bị thuốc men khó huy động người bốc dỡ hàng trong đêm cho tàu ra.
Sau khi bàn bạc, trao đổi, thuyền trưởng báo cáo với đồng chí Trần Suyền cho tàu ở lại và đề nghị cho tìm chỗ giấu và ngụy trang tàu.
Một ngày tàu nằm lại bến Vũng Rô thật dài. 18 giờ ngày 29/11, tàu cơ động về bãi Chính để bốc dỡ hàng. Trên bờ hàng đưa xuống các ghe chuyền tải. Không khí tấp nập khẩn trương. 2 giờ sáng, hàng bốc dỡ xong. Bến cho chuyển cát xuống dằn tàu tạo sự ổn định khi tàu ra khơi gặp sóng gió.
3 giờ sáng 30/11/1964 tàu rời bến Vũng Rô.
Những thùng hàng đầu tiên từ bãi chính Vũng Rô, Hòa Xuân đã được đến cầu Cây Khế vượt Bãi Môn len lách qua những dốc đá cheo leo tập kết ở hang Vàng, bãi Bàng.
THÀNH NAM