Trong cuộc kháng chiến chống chống Mỹ, tỉnh Phú Yên có 16 liệt sĩ anh hùng xả thân vì độc lập tự do.
Lê Trung Kiên
![]() |
Lê Trung Kiên sinh ngày 10/2/1949, dân tộc kinh, quê ở xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa (nay là huyện Đông Hòa), tỉnh Phú Yên; tham gia cách mạng ngày 20/10/1960. Khi hy sinh, đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội 202 đặc công, bộ đội địa phương tỉnh Phú Yên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, sống bằng nghề đánh cá và làm ruộng, được cán bộ giáo dục, anh sớm giác ngộ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, hăng hái tham gia công tác cách mạng ở địa phương. Trước khi vào bộ đội, đồng chí đã xây dựng được 7 cơ sở, vận động 15 thanh niên địa phương gia nhập lực lượng vũ trang.
Trong quá trình hoạt động, Lê Trung Kiên luôn dũng cảm, không sợ hy sinh, gian khổ, xông xáo vào những nơi khó khăn, mặc dù trong chiến đấu đã 5 lần bị thương, anh vẫn bám sát chiến trường, liên tục chiến đấu. Nhờ chuẩn bị chiến trường kỹ càng, có phương án chiến đấu tốt, có tinh thần dũng cảm, anh luôn có mặt trong các mũi nhọn tiến công, cho nên trong các trận đánh do Lê Trung Kiên chỉ huy, đơn vị đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao phó.
Qua 48 trận đánh, với những cương vị khác nhau, nhưng trận đánh nào Lê Trung Kiên cũng đem hết sức mình góp phần vào thắng lợi của đơn vị, riêng bản thân anh đã diệt được 150 tên địch, thu 15 súng các loại.
Trong trận đánh ấp Phú Cần (7/1964), khi mở cửa đột phá, địch chống trả quyết liệt, Lê Trung Kiên vừa bình tĩnh chỉ huy đơn vị, vừa kiên quyết xông lên dập tắt hỏa điểm địch. Trận đánh phát triển thuận lợi, đơn vị diệt toàn bộ bọn tề ngụy ác ôn trong ấp, tạo thời cơ cho bà con nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng thêm vùng giải phóng.
Tháng 10/1964, Lê Trung Kiên chỉ huy một tổ bộ đội đặc công của tỉnh luồn sâu vào vùng địch kiểm soát để đánh sân bay Tuy Hòa. Trận đánh diễn biến gay go, địch chống trả quyết liệt với ý định đến sáng mới phản kích. Lê Trung Kiên một mình mưu trí, dũng cảm xông lên dùng bộc phá và thủ pháo phá hủy hoàn toàn kho đạn của địch đặt trong sân bay, tạo thuận lợi cho đơn vị tiêu diệt địch.
Trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Lê Trung Kiên 2 lần chỉ huy đơn vị đánh vào Sở chỉ huy của Trung đoàn 47 ngụy đóng ở TX Tuy Hòa. Đây là trung đoàn chủ lực của ngụy có nhiệm vụ kìm kẹp đồng bào Phú Yên, càn quét và đánh phá vùng giải phóng. Trong cả hai trận đánh này, đơn vị Lê Trung Kiên chỉ huy diệt nhiều địch, gây khí thế cho đồng bào thị xã nổi dậy giành quyền làm chủ. Lê Trung Kiên đã anh dũng hy sinh ngày 3/3/1968, trong trận đánh Sở chỉ huy Trung đoàn 47 ngụy lần thứ hai tại TX Tuy Hòa.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Lê Trung Kiên luôn nêu cao ý chí tiến công quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng đồng bào, dù khó khăn gian khổ cũng kiên quyết chấp hành nghiêm mọi mệnh lệnh chỉ thị của cấp trên, giành khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đồng đội, sống khiêm tốn, giản dị, được anh em tin yêu, mến phục. Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 Huân chương chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng 3; 4 năm liền được bầu là chiến sĩ thi đua, 23 bằng khen, 11 giấy khen.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, ngày 15/2/1970, Lê Trung Kiên được Chỉnh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Lương Tấn Thịnh
![]() |
Lương Tấn Thịnh sinh năm 1946, dân tộc kinh, quê ở xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa (nay là huyện Đông Hòa), tỉnh Phú Yên; nhập ngũ năm 1963. Khi được tuyên dương anh hùng, đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội 202 đặc công, bộ đội địa phương thuộc Tỉnh đội Phú Yên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đồng chí Lương Tấn Thịnh trưởng thành từ người chiến sĩ lên cán bộ đại đội, trong quá trình hoạt động, đồng chí thường xuyên bám sát cơ sở, len lỏi vào các tuyến phòng thủ của địch để trinh sát; chỉ huy chiến đấu dũng cảm, mưu trí, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Đồng chí Lương Tấn Thịnh đã tham gia đánh 120 trận, trực tiếp chỉ huy đơn vị đánh 24 trận, tiêu diệt 1.000 tên địch, phá hủy 13 kho đạn, 10 khẩu đại bác, 15 xe quân sự. Riêng Lương Tấn Thịnh diệt 225 tên địch, phá hủy 1 xe quân sự, thu 1 súng.
Đêm 7/7/1969, Lương Tấn Thịnh đánh địch ở Mò O, một mũi gặp khó khăn không tiến lên được, anh vừa động viên đơn vị, vừa dẫn một tổ thọc sâu đánh thẳng vào vị trí địch, tạo thuận lợi cho toàn đơn vị xung phong diệt gọn 1 đại đội địch.
Đồng chí Lương Tấn Thịnh luôn luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, gương mẫu, khiêm tốn, giản dị, được đồng chí đồng đội tin yêu.
Đồng chí Lương Tấn Thịnh được tặng thưởng nhiều Huân chương chiến công giải phóng, 2 bằng khen.
Ngày 20/9/1971, Lương Tấn Thịnh được Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Trần Kiệt
![]() |
Trần Kiệt (Trần Thùng) sinh ngày 1/5/1937, dân tộc Kinh, quê ở thôn Thọ Lâm, xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa (nay là huyện Đông Hòa), tỉnh Phú Yên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; nhập ngũ 1960; cấp bậc: Trung úy; chức vụ Tiểu đoàn Phó Tiểu đoàn 14 đặc công Tỉnh đội Phú Yên; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quá trình Trần Kiệt thoát ly tham gia hoạt động cách mạng, nhập ngũ vào quân giải phóng là một quá trình liên tục phấn đấu và trưởng thành. Từ một chiến sĩ ở trung đội trinh sát của tỉnh đến giữ chức vụ Tiểu đội phó, Trung đội trưởng của Đại đội 202 đặc công. Năm 1966-1967, đồng chí giữ chức vụ Trung đội trưởng, Đại đội phó, Đại đội trưởng Đại đội 7, Tiểu đoàn 14 đặc công.
Trần Kiệt đã tham gia đánh trên 100 trận. Trong chiến đấu, đồng chí luôn mưu trí, dũng cảm tiến công địch, lập công xuất sắc; cùng đơn vị diệt hơn 800 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác; có trận đã chỉ huy đại đội diệt 200 tên Mỹ, phá hủy 106 xe quân sự. Riêng Trần Kiệt đã diệt 245 tên địch (trong đó có 37 tên Mỹ, 60 tên Nam Triều Tiên).
Năm 1968, trong một trận chiến đấu rất ác liệt, Trần Kiệt bị thương rất nặng, cấp trên đưa ra Bắc để điều trị, nhưng đồng chí Kiệt đã từ chối, xin ở lại điều trị tại đơn vị và tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội. Năm 1969-1971, đồng chí Kiệt giữ chức Tham mưu phó tiểu đoàn, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 14.
Đêm 30/12/1971, Trần Kiệt đi trinh sát nghiên cứu địa hình chuẩn bị chiến trường phục vụ chiến dịch đồng xuân tại xóm Phường, xã Hòa Thành - Tuy Hòa, khi đi về thì bị phục kích. Chúng cho 3 đại đội bộ binh có máy bay yểm trợ đến bao vây. Mặc dù địch đông, vòng vây mỗi lúc một khép chặt, Trần Kiệt vẫn bình tĩnh, kiên định chờ cho địch vào gần rồi mới nổ súng, ném lựu đạn, tiêu diệt nhiều tên địch. Bị thương nặng, nhưng đồng chí vẫn dũng cảm chiến đấu. Khi hết đạn, Trần Kiệt cướp súng của địch để diệt địch, nêu cao tấm gương chiến đấu kiên cường, bất khuất và đồng chí đã anh dũng hy sinh. Là một cán bộ chỉ huy dũng cảm, xuất sắc, đồng chí Kiệt đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Đồng đội và nhân dân rất khâm phục tinh thần dũng cảm, hy sinh của đồng chí Trần Kiệt.
Với những thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Trần Kiệt đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.
Ngày 15/1/1976, Trần Kiệt được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyễn Kim Vang
![]() |
Đồng chí Nguyễn Kim Vang sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê xã Hàng Đức, Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; nhập ngũ tháng 3/1963, hy sinh tháng 1/1972.
Tốt nghiệp Trường Sĩ quan Biên phòng năm 1966, năm 1967 đồng chí vào Nam chiến đấu, được Ban An ninh tỉnh Phú Yên giao nhiệm vụ làm Chính trị viên đại đội An ninh vũ trang tỉnh, đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ cán bộ, lãnh đạo tuyệt đối an toàn khi đi công tác cũng như những lúc làm việc ở căn cứ; đồng thời phối hợp với các lực lượng khác chiến đấu bảo vệ an ninh và giữ vững khu căn cứ. Với cương vị của mình, Nguyễn Kim Vang đã cùng tập thể đơn vị luôn phấn đấu rèn luyện học tập, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Tháng 9/1968, Nguyễn Kim Vang phụ trách một tổ trực tiếp bảo vệ đoàn cán bộ của trên về và một đoàn của tỉnh đi công tác từ Vân Hòa đến Hòa Thuận, Suối Tre. Trong thời gian 5 ngày phải vượt qua nhiều đoạn đường địch thường phục kích, đồng chí luôn đi đầu, nắm tình hình địch, phá gỡ bom, mìn địch gài và dọn đường đảm bảo an toàn tuyệt đối cho cán bộ, được cấp trên rất hoan nghênh, khen ngợi.
Tháng 4/1969, hội nghị an ninh toàn tỉnh đang tiến hành ở khu vực Hòn Giang (huyện Sơn Hòa) thì hai tiểu đoàn của lính Nam Triều Tiên dùng trực thăng đổ bộ, bao vây cả khu vực này. Ngoài lực lượng bộ binh, địch còn dùng máy bay và pháo bắn phá yểm trợ. Trước tình hình đó, Nguyễn Kim Vang phân công một phân đội bảo vệ và đưa hội nghị sơ tán ra ngoài. Còn anh ở lại, chỉ huy 7 đồng chí, dùng súng và một số loại vũ khí, mìn, lựu đạn đánh ngăn chặn địch. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, giằng co suốt ba ngày đêm, bọn địch phải rút lui, bỏ lại 52 xác chết. Bộ phận đưa cán bộ sơ tán đã kết hợp đưa gần 100 dân đi cùng khác đảm bảo an toàn tuyệt đối.
Tháng 6/1971, tỉnh chủ trương giải phóng thị trấn Củng Sơn để mở rộng vùng ven, tranh thủ giành giật hàng vạn dân với địch. Kết hợp với hai tiểu đoàn bộ đội, Nguyễn Kim Vang phụ trách một phân đội, cùng các lực lượng khác tiêu diệt những tên ác ôn, gián điệp, vận động quần chúng ủng hộ cách mạng. Sau khi đơn vị anh chiếm lĩnh xóm mới, địch cho bộ binh và xe tăng phản kích lại ta. Bị lọt vào vòng vây địch, lại phải chịu đựng các loại đạn, pháo nã ồ ạt suốt ngày cùng với tiếng loa gọi chiêu hồi, anh vẫn bình tĩnh động viên đồng đội giữ vững khí tiết cách mạng, tận dụng mọi vũ khí đánh trả địch quyết liệt, làm cho địch thương vong một số và chúng không dám vào gần. Cuộc chiến đấu vẫn diễn ra giằng co, ác liệt, đến 23 giờ đêm, Nguyễn Kim Vang quyết định mở đường máu, đưa phân đội và nhiều cán bộ về nơi căn cứ an toàn.
Trong phong trào thi đua phát triển tự tạo vũ khí, đơn vị dưới sự chỉ huy của anh đã tự tìm kiếm các loại bom, mìn lép để sản xuất hàng ngàn quả bom, mìn mới góp phần tiêu diệt địch rất hiệu quả. Trong nhiệm vụ này, anh luôn đi đầu về sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được cấp trên đánh giá cao và đồng đội mến phục.
Với cương vị là chính trị viên đại đội, đảng ủy viên cơ sở, ủy viên Ban An ninh tỉnh, đồng chí luôn hết lòng thương yêu đồng đội, đồng bào, làm bất cứ việc gì anh cũng không quản ngại khó khăn, gian khổ và luôn nhận những việc nguy hiểm, nặng nhọc về phần mình. Nhiều lúc đơn vị thiếu lương thực, Vang vào rừng kiếm rau, quả về cho anh em ăn, có lúc anh xuống cơ sở gùi 50-60kg gạo vượt đèo, lội suối hàng mấy ngày đường về cho chiến sĩ. Đóng quân ở đâu, đồng chí cũng động viên đơn vị tranh thủ tăng gia, tự túc lương thực, vì vậy có năm đã cắt sự cung cấp của Nhà nước hàng tấn gạo, mì, rau xanh… nâng cao đời sống cho anh em trong đơn vị.
Tháng 1/1972, trên đường đi công tác, bị địch phục kích, đồng chí Nguyễn Kim Vang đã hy sinh anh dũng. Nhân dân địa phương đã nhận Vang là con em của mình và chăm sóc mộ của đồng chí rất chu đáo.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Nguyễn Kim Vang được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương các loại.
Ngày 6/6/1976, được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyễn Hồng Sơn
![]() |
Nguyễn Hồng Sơn (tức Thành Hiếu), sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Xuân Phương, huyện Sông Cầu (nay là TX Sông Cầu), tỉnh Phú Yên; nhập ngũ tháng 3/1962. Khi hy sinh đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội 201 đặc công, bộ đội địa phương tỉnh Phú Yên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quá trình chiến đấu, Nguyễn Hồng Sơn đã tham gia đánh 36 trận. Trận nào đồng chí cũng nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, chỉ huy linh hoạt. Đơn vị do Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy đã diệt hơn 600 tên địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Riêng bản thân đồng chí trực tiếp tiêu diệt 170 tên địch (trong đó có 70 tên Mỹ), bắt 10 tên, phá hủy 12 máy bay, đốt cháy hơn 1 triệu lít xăng, thu 39 súng.
Tháng 11/1965, Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy một tổ phục kích đánh địch ở chân đèo Cù Mông đã diệt gần hết 1 trung đội lính Mỹ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trong 3 tháng đầu năm 1966, Nguyễn Hồng Sơn đã chỉ huy tiểu đội đánh 6 trận ở khu vực huyện Tuy Hòa, diệt hơn 100 tên địch (trong đó có 89 tên Mỹ). Đêm 4/9/1967, Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy tiểu đội tập kích vào bọn địch ở kho xăng Thọ Lâm, diệt hơn 20 tên địch. Đồng chí trực tiếp đặt mìn đốt cháy kho xăng hơn 1 triệu lít.
Ngày 19/2/1968, Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy đơn vị tập kích sân bay Thọ Lâm. Ngay phút đầu, đồng chí dùng B40 bắn sập một lô cốt, diệt 12 tên địch. Sau đó dẫn đầu đơn vị đánh thẳng vào sân bay, phá hủy 21 chiếc máy bay vận tải và máy bay trực thăng. Riêng đồng chí Nguyễn Hồng Sơn phá hủy 12 chiếc máy bay.
Ngày 28/8/1968, tuy vết thương ở chân chưa lành, nhưng Nguyễn Hồng Sơn vẫn quyết tâm chỉ huy đơn vị tấn công sân bay Hòa Hiệp. Địch chống trả quyết liệt, chúng tập trung xe tăng và trực thăng vũ trang chặn đánh cửa mở. Đồng chí Nguyễn Hồng Sơn động viên anh em quyết tâm chiến đấu trong vòng vây của địch cho đến viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Đến 4 giờ sáng, Nguyễn Hồng Sơn và 8 đồng đội đã hy sinh trên đường băng sân bay sau khi phá hủy 1 máy bay vận tải C130; 6 máy bay phản lực và làm hỏng 4 chiếc khác; bắn cháy 1 xe tăng, bắn sập 4 nhà lính, 1 lô cốt, 1 tháp canh; phá hủy 1 cối 60mm, 2 đại liên; diệt nhiều tên giặc lái và nhân viên kỹ thuật. Trận chiến đấu làm chấn động tinh thần binh lính Mỹ và chư hầu trên chiến trường Phú Yên. Sau trận này, Đại đội được Chính phủ lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba, 9 đồng chí hy sinh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất.
Trong quá trình công tác, chiến đấu, Nguyễn Hồng Sơn luôn gương mẫu về mọi mặt; hết lòng thương yêu đồng đội, luôn nhận khó khăn về mình, khiêm tốn, giản dị, được đồng đội tin yêu.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí Nguyễn Hồng Sơn được Nhà nước tặng thưởng: 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 14 bằng khen, 4 lần là chiến sĩ thi đua, 6 lần danh hiệu Dũng sĩ.
Ngày 6/11/1978, Nguyễn Hồng Sơn được Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Nguyễn Thế Bảo
![]() |
Đồng chí Nguyễn Thế Bảo (Nguyễn Cật) dân tộc Kinh, sinh năm 1930, quê ở xã Hòa Thắng, TX Tuy Hòa (nay là huyện Phú Hòa), tỉnh Phú Yên. Khi hy sinh, đồng chí là đảng viên, Phó trưởng Ban An ninh tỉnh Phú Yên.
Sinh trưởng trong một gia đình nông dân tại vùng quê giàu truyền thống cách mạng, năm 1946, Nguyễn Cật tham gia dân quân xã, năm 1947 thoát ly gia đình vào Ty Công an Phú Yên, rồi lần lượt giữ chức vụ: Trưởng đồn công an ở An Ninh - Tuy An, La Hai - Đồng Xuân và Hòa Thịnh - Tuy Hòa. Năm 1953, đồng chí tập kết ra Bắc, học lớp đào tạo công an và tham gia tiếp quản Thủ đô. Năm 1960, Nguyễn Cật được đề bạt là Phó Khu công an Ba Đình, Hà Nội. Năm 1962, đồng chí được điều về miền Nam làm Phó Ban An ninh tỉnh Phú Yên - ở cương vị công tác nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Năm 1962, đồng chí Nguyễn Cật đã chỉ huy đơn vị diệt ác phá kìm, đột nhập phá ấp chiến lược Hòa Định, TX Tuy Hòa, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, trên đường rút về căn cứ, đơn vị đã lọt vào ổ phục kích của địch. Đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy đơn vị mưu trí và dũng cảm chiến đấu với địch, bảo toàn lực lượng của ta và rút lui an toàn. Trong trận chiến đấu đó, đồng chí đã bị thương nhưng vẫn gắng hết sức về căn cứ. Trong Tết Mậu Thân năm 1968, đồng chí chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt với địch, liên tiếp bẻ gãy nhiều đợt tấn công của chúng, tiêu diệt gần 50 tên. Ngày hôm sau địch lại mở đợt tấn công, có máy bay, xe tăng M113 yểm trợ. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Cật, chiến sĩ ta đã bắn cháy 3 chiếc M113 của chúng và đẩy lùi đợt tấn công đó. Địch lại huy động một lực lượng lớn gồm lữ đoàn dù 173 của Mỹ, trung đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên, Tung đoàn 47 ngụy có máy bay yểm trợ ném bom vào lực lượng ta. Trước tình hình đó, đồng chí đã chỉ đạo đơn vị rút lui an toàn, còn bản thân mình lại giữa vòng vây của địch, tiếp tục chiến đấu tiêu diệt nhiều tên địch và đồng chí Nguyễn Thế Bảo đã anh dũng hy sinh.
Tấm gương chiến đấu kiên cường, bất khuất, mưu trí sáng tạo, dũng cảm hy sinh của đồng chí Nguyễn Thế Bảo đã để lại cho đồng đội và quần chúng nhân dân lòng tiếc thương vô hạn. Tỉnh ủy và lực lượng an ninh Phú Yên đã tổ chức đợt học tập tinh thần chiến đấu cao cả và hạ quyết tâm chiến đấu, lập nhiều thành tích để trả thù cho đồng chí.
Với những thành tích đóng góp đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Nguyễn Thế Bảo được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương các loại.
Ngày 3/8/1995, được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyễn Anh Hào
![]() |
Đồng chí Nguyễn Anh Hào (tức Năm An), sinh năm 1932, dân tộc Kinh, quê quán ở xã Hòa Bình 1, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Khi hy sinh, đồng chí là Ủy viên Ban An ninh tỉnh Phú Yên, phụ trách Ban điệp báo và an ninh đô thị tỉnh.
Sớm giác ngộ cách mạng, tháng 8/1945 Nguyễn Anh Hào tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Tuy Hòa, sau đó được phân công làm Trưởng Công an xã Hòa Bình. Từ năm 1947-1954, đồng chí được điều động về Ban bảo vệ chính trị Ty Công an Phú Yên. Năm 1954,đồng chí tập kết ra Bắc, được phân công về Ty Công an Yên Bái. Năm 1961, đồng chí tình nguyện về Nam chiến đấu và được điều về Ban An ninh tỉnh Phú Yên, phụ trách điệp báo và an ninh đô thị. Đây là một địa bàn mà cuộc chiến từng ngày diễn ra hết sức quyết liệt, đồng chí đã khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, thường xuyên bám dân, bám địa bàn, vận động quần chúng, phân hóa lôi kéo làm rệu rã hàng ngũ địch; chỉ huy đơn vị đánh 120 trận, diệt 253 tên tề điệp, ác ôn; bắt giáo dục cải tạo 194 tên phản động các loại; kịp thời phá 32 vụ gián điệp, xây dựng 266 cơ sở trong lòng địch… Ngoài ra, đồng chí đã độc lập đánh 47 trận, tiêu diệt 28 tên địch, bắt sống 41 tên, xây dựng được 67 cơ sở điệp báo trong hàng ngũ địch.
Tháng 5/1962, Nguyễn Anh Hào được giao nhiệm vụ tiêu diệt tên Giải, Xã trưởng xã An Thọ, một tên ác ôn khét tiếng, từng bắn giết, moi gan, mổ bụng hàng chục cán bộ ta, y rất giỏi võ nghệ, luôn có lính bảo vệ, nhiều lần ta phục kích tiêu diệt nhưng không thành, sau mỗi lần chết hụt, y lại càng hung hăng chống phá cách mạng quyết liệt hơn. Việc tiêu diệt tên Giải đã làm cho bọn tay sai ác ôn trong vùng hoang mang lo sợ, chùn tay gây tội ác.
Tháng 6/1966, trong một chuyến đi công tác, đồng chí đã phát hiện và tập kích vào một toán lính Mỹ, tiêu diệt 1 tên, bắt sống 1 tên, thu 2 súng, phá tan âm mưu của địch đánh phá vào hành lang căn cứ của ta.
Trong chiến dịch tổng tiến công (năm 1968), Nguyễn Anh Hào đã trực tiếp chỉ huy lực lượng điệp báo trong lòng địch, phối hợp với các lực lượng vũ trang đánh vào khu cố vấn Mỹ, ty cảnh sát, nhà lao, tiêu diệt và làm bị thương 80 lính Mỹ và nhiều lính ngụy ác ôn đầu sỏ. Trước thất bại nặng nề đó, địch đã tăng cường lực lượng có máy bay, xe tăng yểm trợ mở cuộc tấn công bao vây Bộ chỉ huy của ta. Đồng chí đã chỉ huy lực lượng an ninh phá vỡ vòng vây của địch, tiêu diệt hàng chục tên, đồng thời đưa các đồng chí lãnh đạo của tỉnh rút về căn cứ an toàn. Trong trận chiến đấu này, Nguyễn Anh Hào đã anh dũng hy sinh.
Với những thành tích đóng góp đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng chí Nguyễn Anh Hào được tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng nhất, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng Ba.
Ngày 21/1/1997, đồng chí Nguyễn Anh Hào được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trần Quốc Tuấn
Trần Quốc Tuấn (Bí danh Trần Rến), sinh ngày 24/4/1924 tại Định Thắng, Hòa Định, Phú Hòa, Phú Yên, trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm. Năm 1946, đồng chí tham gia đội du kích xã Hòa Định làm đội viên du kích. Trong quá trình công tác, đồng chí luôn luôn chấp hành triệt để mệnh lệnh cấp trên, có quyết tâm cao, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tháng 7/1949, đồng chí Tuấn được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, được phân công giữ chức vụ xã đội phó. Trong quá trình công tác và chiến đấu, đồng chí luôn thể hiện ý chí quyết tâm xông xáo và dũng cảm, đã trực tiếp tham gia chiến đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tháng 5/1953, đồng chí giữ chức vụ xã đội trưởng.
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Geneve được ký kết, được sự phân công của tổ chức, Trần Quốc Tuấn ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách mạng. Đến năm 1960 cơ sở bị lộ, đồng chí bị địch bắt và giam cầm hơn 2 năm ở nhà lao TX Tuy Hòa. Sau khi ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động móc nối liên lạc với cách mạng và thoát ly ra vùng giải phóng, được phân công làm Trưởng ban Kinh tài xã Hòa Định từ năm 1962-1965.
Từ 1966-1970, địch tăng cường càn quét, đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng, căn cứ hậu cứ của ta, khống chế mọi hoạt động của quân và dân trong địa bàn của xã và các vùng lân cận. Trước tình hình khó khăn ác liệt và thiếu thốn về vũ khí phục vụ cho phong trào nhân dân du kích chiến tranh, đồng chí đã đề xuất với lãnh đạo của xã thành lập tổ quân giới, do đồng chí làm tổ trưởng. Với khả năng sáng tạo và chịu khó tìm tòi nghiên cứu học hỏi, với nhiệt tình cách mạng và kinh nghiệm vốn có của bản thân, đồng chí ngày đêm lặn lội xuống vùng sâu móc nối cơ sở, huy động đóng góp và thu mua các nguyên, vật liệu và dụng cụ để sản xuất cải tiến khí thô sơ như: cưa sắt, ê-ke, kìm, kéo, búa, đe và một số hóa chất khác… Đồng chí trực tiếp tuyên truyền phát động toàn dân trong xã hưởng ứng phong trào thu lượm bom pháo đạn lép của địch mang nộp cho tổ quân giới xã, viết thư cho các cơ sở nội tuyến lấy cắp lựu đạn, mìn, dây điện, kíp nổ chuyển ra cho xã. Bản thân đồng chí cùng tổ quân giới đã thu nhặt trên 5.000 quả đạn cối 60 ly, 81ly, pháo 105 ly, lựu đạn, mìn và cả bom của địch để sản xuất vũ khí, tự tay đồng chí đã sang chế, cải tiến trên 15.000 quả mìn các loại cung cấp cho du kích, bộ đội đánh giặc và bố phòng; phối hợp chặt chẽ với Đại đội 19 công binh tỉnh sản xuất một số lượng lớn mìn phục vụ cho đánh giao thông làm chủ trên trục đường 7 nhiều năm liền, đánh cháy và phá hủy hơn 75 xe quân sự các loại, hàng trăm tấn vũ khí đạn dược, làm chết và bị thương hàng trăm tên địch.
Ngày 24/9/1969, địch dùng trực thăng đổ quân xuống khu vực Eo Gió - núi Hòn Hương càn quét đánh phá vào vùng căn cứ của ta. Đồng chí Tuấn nghiên cứu tìm ra cách đánh táo bạo nhất để tiêu diệt bọn địch đổ bộ bằng trực thăng với sáng kiến dùng nhiều loại mìn gài liên kết với nhau từ mặt đất lên đến các ngọn cây, bụi rậm; dùng dây điện, pin điểm hỏa nổ nhiều quả cùng một lúc. Kết quả làm cháy 1 máy bay trực thang, thiêu cháy 12 tên lính Nam Triều Tiên. Bọn địch điên cuồng tỏa ra lùng sục quanh khu vực trên, tiếp tục bị vướng mìn bố phòng do đồng chí trực tiếp gài làm chết thêm 24 tên. Từ đó địch hạn chế dùng trực thăng đổ quân, hạn chế càn quét lùng sục vào vùng căn cứ.
Ngày 24/2/1970, 2 trung đội lính đánh thuê Nam Triều Tiên đóng chốt ở Núi Tranh (xã Hòa Quang) đi tuần tra mở đường dọc theo kênh mương kênh nam 1 đến cầu vôi xã Hòa Định. Đồng chí Tuấn cùng với du kích xã bố trí gài 50 quả mìn các loại khu vực Cầu Vôi… tiêu diệt 18 tên tại chỗ và 7 tên khác bị thương.
Ngày 23/9/1970, Trần Quốc Tuấn cùng đồng đội làm nhiệm vụ bố phòng xây dựng “Khu tử địa” tại núi Hương, trên đường đi đồng chí bị địch phục kích và hy sinh.
Với những thành tích trong sản xuất vũ khí tự tạo và chiến đấu, đồng chí đã được tặng thưởng: 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 1 Huân chương kháng chiến hạng nhất, 1 Huân chương kháng chiến hạng nhì, 2 danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp khu và tỉnh; danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ, diệt xe cơ giới, diệt máy bay và nhiều bằng khen khác.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày 11/6/1999, đồng chí Trần Quốc Tuấn được Chủ tịch Nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Phạm Đình Quy
Phạm Đình Quy sinh năm 1936, quê ở xã Hòa Tân Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên; nhập ngũ năm 1961; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1964). Khi hy sinh là Đại đội trưởng Đại đội 377 bộ đội địa phương huyện Tuy Hòa.
Từ năm 1961-1967, đồng chí Phạm Đình Quy tham gia chiến đấu trên địa bàn huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Đồng chí đã cùng đồng đội và chỉ huy đơn vị tổ chức đánh 62 trận lớn, nhỏ; tiêu diệt 775 tên địch (trong đó có 650 tên ngụy, 125 tên Nam Triều Tiên). Đồng thời hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị và binh vận ở địa phương. Riêng bản thân đồng chí Phạm Đình Quy đã tiêu diệt 25 tên địch, bắt sống 6 tên, thu 10 súng.
Ngày 18/8/1967, trong khi đi chuẩn bị chiến trường, đồng chí bị địch càn bao vây. Đồng chí đã cùng với 1 đồng chí trinh sát đại đội chống trả quyết liệt, nhưng do địch quá đông, súng hết đạn, Phạm Đình Quy bị thương và bị địch bắt. Địch tổ chức tra khảo, khai thác nhưng đồng chí Phạm Đình Quy vẫn dũng cảm kiên quyết không khai, cuối cùng bị địch bắn chết. Sau đó chúng cho thiêu xác đồng chí tại quận lỵ Phú Lâm để đe dọa quần chúng và lực lượng ta.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Phạm Đình Quy đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba; Huân chương Quân Giải phóng miền Nam, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang các hạng nhất, nhì.
Ngày 11/6/1999, đồng chí Phạm Đình Quy được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lưu Văn Liêu
Lưu Văn Liêu sinh ngày 8/5/1947; quê quán: thôn Nho Phong, xã Đức Long, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình; nhập ngũ tháng 3/1970. Đơn vị khi nhập ngũ: C16, d3, Lữ đoàn 126 Hải quân. Đơn vị khi đi B thuộc Đại đội 1, Đoàn 119 thuộc chiến trường Quảng Nam. Khi hy sinh, đồng chí là chiến sĩ Đại đội 24 (đặc công nước) thuộc Tỉnh đội Phú Yên. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 1/1972.
Phát huy truyền thống cách mạng của địa phương và gia đình, đồng chí Lưu Văn Liêu đã thoát ly gia đình, nhập ngũ vào quân đội, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đồng chí xung phong lên đường vào Nam chiến đấu. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, ác liệt, chiến đấu anh dũng, kiên cường. Đồng chí đã trực tiếp chiến đấu 5 trận, trong đó đánh phối hợp 2 trận, đánh độc lập 3 trận, tiêu diệt 119 tên; xóa sổ 2 trung đội bảo an, 1 trung đội dân vệ, 2 tiểu đội biệt kích; phá hỏng nặng 1 cầu đường sắt, 2 cầu bê tông, 3 lô cốt, 200m kẽm gai.
Tháng 6/1971, Ban CHQS tỉnh Phú Yên giao nhiệm vụ cho Đại đội Đặc công nước 24 có nhiệm vụ đánh sập 2 cầu Đà Rằng (cầu sắt và cầu bê tông, có chiều dài 1.110m; hai cầu đều có vị trí rất quan trọng trên tuyến giao thông Bắc - Nam, nhất là cầu bê tông trên đường bộ quốc lộ 1A. Đây là con đường huyết mạch, địch thường xuyên vận chuyển cung cấp vũ khí, đạn dược, binh khí kỹ thuật, phương tiện phục vụ chiến tranh cho khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Đêm 26/6/1971, sau một thời gian ngắn làm công tác chuẩn bị chiến trường, đơn vị đã đưa các khối thuốc nổ vào tận chân cầu để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được giao. Đơn vị đã sử dụng 1 tổ gồm có 4 đồng chí và 400kg thuốc nổ (chia thành 2 khối) đánh 2 cầu. Mỗi khối do 2 đồng chí đảm nhiệm, lợi dụng dòng nước chảy, 2 tổ đã tiếp cận áp sát mục tiêu, mặc cho địch liên tục bật đèn pin, đèn pha, pháo sáng, bắn súng, tuần tra nghiêm ngặt, nhưng 2 tổ đã đặt xong 2 khối thuốc nổ vào đúng vị trí quy định theo phương án tác chiến. Sau khi buộc 2 khối thuốc nổ vào chân cầu, nối dây chuyền nổ giữa 2 khối thuốc nổ, cắm kíp hẹn giờ nổ, 2 tổ rút ra vị trí an toàn. Đúng 2 giờ sáng 27/6/1971, một tiếng nổ long trời làm rung chuyển cả TX Tuy Hòa và quận Hiếu Xương (Tuy Hòa 1), 2 chiếc cầu sắt và bê tông dài hơn một cây số bắc qua sông Ba đã bị gãy làm đôi, phá hủy 1 xe M113 và diệt 5 tên lính Nam Triều Tiên đang tuần tra trên cầu; làm tắc nghẽn giao thông 7 ngày. Tổ chiến đấu 4 đồng chí của Đại đội Đặc công 24 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đại đội Đặc công 24 được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, các đồng chí Xáo, Long Huỳnh và Lưu Văn Liêu được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.
Tiếp tục thực hiện ý định cắt đứt giao thông, ngăn chặn địch cơ động, vận chuyển trên tuyến quốc lộ 1A, Ban chỉ huy Tỉnh đội Phú Yên giao nhiệm vụ cho Đại đội Đặc công 24 thực hiện nhiệm vụ đánh sập cầu Ngân Sơn, cắt đứt giao thông, cơ động và vận chuyển của địch, phối hợp với cuộc tiến công và nổi dậy trong chiến dịch Xuân - Hè 1972 trên chiến trường Phú Yên. Đại đội giao nhiệm vụ cho 3 đồng chí Cát (Đại đội phó), Lưu Văn Liêu (tổ trưởng), Đại (chiến sĩ), sử dụng 200kg thuốc nổ đánh sập cầu Ngân Sơn. Đêm 20/4/1972, tổ chiến đấu rời vị trí tập kết di chuyển khối thuốc nổ về phía chân cầu Ngân Sơn, đồng chí Lưu Văn Liêu nhận nhiệm vụ ôm khối thuốc nổ, bơi theo dòng chảy của sông đặt vào chân cầu. Khi còn cách chân cầu hơn 10m, đồng chí Liêu bị địch phát hiện, chúng nổ súng báo động, 1 trung đội địch chạy ra giữa cầu định bao vây bắt sống đồng chí Liêu, chúng la hét và kêu gọi đồng chí Liêu đầu hàng. Trong tình thế đó, Lưu Văn Liêu bình tĩnh nói với đồng chí Cát và đồng chí Đại “các anh lặn vào bờ và thoát đi, để một mình em đánh cho”. Trước tình thế khẩn cấp, đồng chí Liêu đã dùng hết sức mình kéo nhanh khối thuốc nổ vào sát trụ cầu và anh đã giật nụ xòe làm cho khối thuốc nổ ngay. Một ánh chớp sáng lóa kéo theo một tiếng nổ long trời lở đất, phá sập 2 nhịp cầu, diệt gọn 1 trung đội bảo an (gồm 35 tên) đang đứng trên cầu. Đồng chí Lưu Văn Liêu đã anh dũng hy sinh thân mình để hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt xuất sắc. Từ trận chiến đấu ấy, cầu Ngân Sơn đã trở thành địa danh lịch sử gắn liền với chiến công bất tử của người chiến sĩ đặc công.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, hành động anh hùng và sự hy sinh oanh liệt của đồng chí Lưu Văn Liêu được đơn vị chọn bầu chiến sĩ thi đua năm 1971 và được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.
Ngày 24/6/2005, đồng chí Lưu Văn Liêu được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Trần Thị Có
Trần Thị Có sinh năm 1922; quê ở thôn Mỹ Trung, xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa. Từ năm 1955-1957 là cơ sở cách mạng; từ năm 1957-1960 là cán bộ phụ nữ thôn Mỹ Trung, xã Hòa Thịnh; từ năm 1960-3/1961 là cán bộ phụ nữ xã Hòa Thịnh.
Là cơ sở cách mạng, đồng chí trực tiếp nuôi giấu cán bộ, tham gia cùng đội công tác xã tuyên truyền và vận động quần chúng, xây dựng phong trào cách mạng, phá ấp chiến lược, vận động thanh niên thoát ly, móc nối cơ sở liên lạc cho cách mạng; tích cực vận động kết nạp hội viên, vận động gia đình có chồng, con đi lính cho địch trở về với cách mạng. Trong quá trình hoạt động, chị luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Tháng 10/1954, chồng chị là Nguyễn Bá, Bí thư Chi bộ xã Hòa Thịnh, bị địch bắt và thủ tiêu, lúc đó chị mới sinh đứa con thứ 3 được 2 tháng tuổi. Căm phẫn trước sự tàn sát của kẻ thù và để trả thù chồng, cuối năm 1954, chị xin tham gia cách mạng được lãnh đạo phân công làm cơ sở, nuôi giấu cán bộ ở xã Hòa Thịnh. Trong thời gian này, địch tàn sát nhân dân rất khốc liệt, nhiều cơ sở của ta bị lung lay, dao động, mất phương hướng, có trường hợp còn hợp tác, làm việc cho địch, nhưng Trần Thị Có vẫn kiên trung, giữ vững lòng tin với cách mạng. Cơ sở của chị luôn vững chắc, bảo đảm bí mật, an toàn cho các đồng chí lãnh đạo chủ chốt hoạt động, như đồng chí: Phạm Văn Giáo (Năm Thanh), Bùi Tân (Bảy Thanh), Nguyễn Duy Luân (Chín Cao)…
Tháng 7/1957, trong lúc chị cùng với Tạ Thị Triêm (cán bộ phụ nữ xã) đang làm nhiệm vụ, chuyển thư liên lạc cho cách mạng thì bị địch nghi vấn và bắt. Địch tra tấn chị vô cùng tàn bạo, dã man: cạy miệng đổ nước muối, nước xà phòng, rồi đứng 2 chân lên bụng giẫm, đạp cho nước ọc ra mũi, miệng; dùng dùi cui 3 cạnh đánh vào các khớp xương, tra điện vào 2 đầu vú; hoặc treo ngược lên sàn nhà, dùng dùi cui, roi mây đánh vào người, làm cho chị nhiều lần chết đi, sống lại. Nhưng qua 3 tháng địch không khuất phục được chị và không có cơ sở buộc tội, địch phải trả tự do cho chị. Sau khi ra tù, chị tiếp tục làm cơ sở cách mạng tại thôn Mỹ Trung.
Tháng 12/1960, chị được cách mạng tin tưởng giao nhiệm vụ nuôi giấu đồng chí Nguyễn Duy Luân (ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, sau này là Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên) và một số đồng chí lãnh đạo khác về chỉ đạo phong trào Đồng khởi Hòa Thịnh. Chị đã kịp thời nắm và cung cấp tình hình, móc nối liên lạc với các tổ chức cách mạng và đã góp phần cho cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh giành thắng lợi.
Ngày 16/3/1961, trong chuyến đi công tác từ căn cứ về làng mua vải đỏ để may cờ Mặt trận và thuốc men đưa về căn cứ, chị bị đại đội bảo an địch phục kích và bắt. Địch dùng hết mọi thủ đoạn, mọi đòn tra tấn, đánh đập rất tàn bạo và thay nhau hãm hiếp chị. Không tìm được manh mối nào, địch tiếp tục dùng thủ đoạn hết sức dã man, chúng đào một cái hố, bỏ chị xuống và đe dọa nếu không khai báo chúng sẽ chôn sống. Chị nhìn thẳng vào mặt chúng nói: “… Phải, tôi đi theo Mặt trận, đi làm cách mạng đó. Nhưng tôi làm đây là làm cho nước, cho dân, cho những người nghèo khổ. Đúng ra trai tráng các anh phải làm, đằng này không làm đã thế lại còn cản trở tôi”. Chúng tức điên, kề mũi súng vào tai chị, nhưng chị vẫn bình tĩnh nói: “Các anh muốn bắn tôi, bắn để làm gì? Bắn để đàn áp phong trào cứu nước à?”. Rồi chị lắc đầu, kết luận: “Vô ích”.
Biết không thể khuất phục được, địch hèn hạ giết chị. Trước lúc bắn, chúng cho chị nói lời cuối cùng, may ra tìm ở chị một chút nao núng, run sợ. Nhưng chị vẫn bình tĩnh, mở to mắt, nhìn thẳng vào bọn sát nhân, khát máu và cởi chiếc áo khoác ngoài, đưa cho mấy tên lính, chị nói: “Các anh cho tôi nói lời cuối cùng à! Điều đó không cần thiết. Tôi chỉ yêu cầu các anh một điều: Tôi muốn nhờ các anh đưa chiếc áo này về cho con tôi, để nó bán lấy tiền đong gạo và nhờ các anh nói với con tôi rằng: Mẹ đi làm cách mạng đã hy sinh rồi”. Tên chỉ huy đã ra lệnh bắn. Run sợ trước tinh thần hiên ngang, bất khuất của chị, không một tên lính nào dám bắn trúng chị. Tên chỉ huy điên cuồng, rút súng, tự tay bắn vào người chị… Chưa hả dạ, chúng còn cắt 2 tai, cắt lưỡi, xẻo vú của chị, xỏ thành xâu đưa về chợ Mỹ Xuân (xã Hòa Thịnh) và tuyên truyền: Chúng đã giết được một cán bộ cộng sản nữ bự, để uy hiếp tinh thần nhân dân Hòa Thịnh.
Nhưng chúng đã lầm, tấm lòng kiên trung bất khuất của nữ chiến sĩ cách mạng, tấm lòng đôn hậu nhân ái của chị Trần Thị Có đã tô thắm thêm trang sử, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân xã Hòa Thịnh. Xúc động trước tấm gương hy sinh lẫm liệt của chị, đồng chí Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên đã trực tiếp biên soạn vở tuồng: “Chị Trần Thị Có” và giao cho đoàn văn công của tỉnh trình diễn. Khán giả xem vở tuồng này đều òa lên khóc và đứng phắt dậy hô vang: “Đả đảo Mỹ - Diệm, đả đảo Mỹ - Diệm”.
Với những hành động dũng cảm, kiên cường và công lao đóng góp to lớn, đồng chí Trần Thị Có đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng ba.
Ngày 24/6/2005, đồng chí Trần Thị Có được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyễn Dũng
![]() |
Nguyễn Dũng (Nguyễn Lầu) sinh năm 1921, dân tộc Kinh, quê quán thôn Phước Hậu, xã Hòa Kiến (nay là thôn Phước Hậu 1, phường 9), TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên; tham gia cách mạng tháng 4/1945, nhập ngũ tháng 1/1946; cấp bậc trung tá; khi hy sinh đồng chí là Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Phú Yên; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 1960-1963.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, dù ở cương vị nào, đồng chí đều thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc, tinh thần mưu trí, dũng cảm, ngoan cường, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Dũng tổ chức, chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh đánh hơn 200 trận, với quy mô từ cấp đại đội đến cấp trung đoàn; tiêu diệt 1.269 tên địch (có 7 cố vấn Mỹ, 22 sĩ quan ngụy), làm bị thương 365 tên, bắt sống 97 tên, thu được 184 súng các loại (có 1 đại liên, 5 trung liên), 15.000 viên đạn; phá hủy 8 đầu máy xe lửa, 38 toa xe, 5 lô cốt sắt di động, 10 xe quân sự, bắn rơi 4 trực thăng, bắn trúng 10 chiếc trực thăng, đánh sập 5 cầu, 123 lô cốt, giải phóng được 53 xã, với số dân trên 233.000 người, làm tan rã kế hoạch “ấp chiến lược” và chiến dịch “Hải Yến” của địch.
Là một người chỉ huy sáng suốt, gan dạ và đức độ, có nhiều thành tích trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nên đồng chí được phân công giữ chức Trưởng Ban quân sự tỉnh, Tỉnh đội trưởng Phú Yên trong những ngày đầu của kháng chiến chống Mỹ. Với tác phong giản dị, dễ gần nhưng kiên quyết, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, đồng chí đã trực tiếp chỉ huy hàng trăm trận, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy và thu nhiều vũ khí, trang bị của địch, trong đó có nhiều trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, tiêu biểu như: chỉ huy trận tập kích đại đội địch ở Cây Đu - Đá Chẹt vào lúc 8 giờ sáng 2/2/1961 diệt 2 trung đội bảo an, giết và làm bị thương hơn 50 tên địch, thu 26 súng các loại cùng nhiều đạn dược và quân trang quân dụng. Chiến thắng Cây Đu - Đá Chẹt là trận phục kích đầu tiên giành thắng lợi nhanh gọn, đạt hiệu suất chiến đấu cao của lực lượng vũ trang Phú Yên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến thắng này đã làm cho bọn ngụy quân, ngụy quyền ở Phú Yên bất ngờ và choáng váng; cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong tỉnh phấn khởi, tin tưởng cách mạng, hàng trăm thanh niên các địa phương từ vùng địch đã thoát ly lên núi tìm cách mạng xin tham gia lực lượng vũ trang.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Dũng luôn là người đi đầu trong việc củng cố, xây dựng, khôi phục và phát triển các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng, củng cố, khôi phục các đơn vị vũ trang tỉnh, huyện, xã, tích cực huấn luyện, giúp đỡ du kích đánh địch. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, lực lượng vũ trang tỉnh từ trung đội vũ trang đầu tiên của tỉnh (B95), sau đó phát triển lên nhiều trung đội của tỉnh, huyện, tiến tới thành lập nhiều đơn vị cấp đại đội và các trung đội binh chủng, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện tổ chức thành lập Ban chỉ huy Tỉnh đội Phú Yên với 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần (năm 1960); thành lập tiểu đoàn đầu tiên của tỉnh (Tiểu đoàn bộ binh 85) vào đầu năm 1963. Đây là một đóng góp lớn của đồng chí Nguyễn Dũng, đánh dấu bước trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang tỉnh. (Trong đó có Đại đội 377, Đại đội 202, Tiểu đoàn 85 và lực lượng vũ trang tỉnh đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân).
Nguyễn Dũng là người trực tiếp đưa ra sáng kiến và chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh lấy vũ khí địch đánh địch, tạo nên phong trào tìm địch mà diệt, thu vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang từ tỉnh đến cơ sở, bảo đảm vũ khí cho lực lượng vũ trang chiến đấu với kẻ thù, góp phần đưa lực lượng vũ trang tỉnh ngày càng lớn mạnh.
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh giải thoát Luật sư Nguyễn Hữu thọ - Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn đang bị địch quản thúc tại Tuy Hòa, đưa Luật sư ra vùng giải phóng an toàn tạo bước ngoặt lớn trong phong trào đấu tranh chính trị ở miền Nam. Với tinh thần mưu trí, dũng cảm và quyết tâm cao, đồng chí đã 3 lần lập phương án giải thoát Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, nhưng do nhiều lý do khách quan nên đến lần thứ 3 (10/1961) cuộc giải thoát mới thành công. Việc giải thoát thành công Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là một vinh dự lớn của quân và dân Phú Yên vì đã hoàn thành được trọng trách, nhiệm vụ đặc biệt, đột xuất do Trung ương Đảng giao phó, trong đó Nguyễn Dũng - Tỉnh đội trưởng Phú Yên là một trong những đồng chí có công đầu trong nhiệm vụ đặc biệt xuất sắc này. Ngày 18/7/1963, trong lúc tổ chức hành quân đánh địch, đồng chí bị địch phục kích và hy sinh tại xã Sơn Định, huyện Sơn Hòa.
Với những công lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Nguyễn Dũng được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Độc lập hạng nhì.
Ngày 22/1/2010, đồng chí Nguyễn Dũng được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tô Nào
![]() |
Đồng chí Tô Nào (Thanh, Tấn) sinh năm 1930, quê ở thôn Phước Hậu, xã Hòa Kiến, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Tham gia cách mạng năm 1947, nhập ngũ ngày 4/1/1949; đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, năm 17 tuổi, đồng chí tham gia tích cực phong trào thanh niên ở địa phương. Năm 1949, đồng chí Tô Nào xung phong tòng quân lên đường giết giặc cứu nước. Đồng chí vinh dự được biên chế vào Đại đội 377 huyện Tuy Hòa tham gia chiến đấu trong chiến dịch Át-lăng. Đồng chí là một cán bộ nhiệt tình năng nổ, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc được bầu chiến sĩ thi đua của Liên khu 5 năm 1953. Sau Hiệp định Geneve, năm 1954 tập kết ra miền Bắc và được Đảng, Nhà nước, quân đội cử đi học Trường Sĩ quan lục quân ở Trung Quốc, học xong đồng chí được phân công về Sư đoàn 324 công tác, đem kiến thức, kinh nghiệm học tập ở nước ngoài về góp phần tham gia xây dựng quân đội chính quy ở miền Bắc và lực lượng vũ trang cách mạng ở Phú Yên sau này.
Tháng 10/1959, đồng chí là một trong 32 cán bộ quân đội và cán bộ Đảng đầu tiên đi tập kết ra Bắc trở về Phú Yên chiến đấu. Sau khi về tỉnh nhà, số cán bộ quân đội nói chung, đồng chí Tô Nào nói riêng khẩn trương tổ chức huấn luyện quân sự cho số thanh niên mới thoát ly để chuẩn bị thành lập đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh. Từ chiến sĩ Đại đội 377 huyện Tuy Hòa trong kháng chiến chống Pháp đến Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 85 trong kháng chiến chống Mỹ, ở cương vị công tác nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí đã trực tiếp chiến đấu, chỉ huy chiến đấu lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, tiêu diệt và góp phần tiêu diệt hàng trăm têm địch, bắn rơi, bắn cháy nhiều máy bay, xe tăng; thu và phá hủy nhiều vũ khí trang bị của địch. Ngoài chỉ huy chiến đấu và chiến đấu, đồng chí còn làm tốt công tác chỉ đạo tuyên truyền vận động quần chúng, nhân dân tham gia cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận, đưa phong trào cách mạng ngày càng phát triển đến thắng lợi cuối cùng.
Đồng chí Tô Nào là cán bộ quân đội có bản lĩnh, thông minh, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của ông cha ta đánh giặc: Lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều; với phương châm “lấy vũ khí của địch đánh địch, trang bị cho ta”. Trên cương vị Thường vụ Huyện ủy, Huyện đội trưởng (1962-1964), đồng chí đã chỉ đạo các ngành, đoàn thể động viên nhân tài, vật lực phục vụ lực lượng vũ trang mở rộng vùng giải phóng, lấy vũ khí địch trang bị cho đại đội tập trung, du kích và phát triển lực lượng du kích để giữ vùng giải phóng. Phát động quần chúng phá “ấp chiến lược” phá thế kìm kẹp ở nông thôn, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang tích cực tiến công địch bằng cả 2 chân, 3 mũi giáp công ở 3 vùng chiến lược đưa phong trào cách mạng của huyện lên cao trào sôi nổi, rộng khắp, ép địch phải co cụm về sát quốc lộ 1, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng phát triển, đặc biệt là phong trào nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, tháng 11/1963 đã phá sạch 44/68 ấp chiến lược và 22/22 khu dồn. Ngụy quyền cơ sở địch nhiều nơi hoang mang, rệu rã. Trong 3 tháng cuối năm 1963 có 379 lính ngụy đào ngũ, rã ngũ, 545 tên ngụy quyền thôn, xã ra đầu thú.
Trong trận chiến đấu ngày 27/12/1967 đánh chốt Hoàn Bứa, trận đánh tập kích gặp nhiều khó khăn thử thách nhất, đồng chí Tô Nào đã mưu trí, linh hoạt chỉ huy đơn vị chiến đấu dũng cảm, kiên cường, kiên quyết tiêu diệt đồn địch và đồng chí đã anh dũng hy sinh.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên nhiều cương vị công tác, từ cán bộ tiểu đội, đại đội, huyện đội đến tiểu đoàn, đồng chí đã trực tiếp chiến đấu và chỉ huy chiến đấu 56 trận, tiêu diệt và góp phần tiêu diệt hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 máy bay phản lực F100D, 1 máy bay trinh sát LI9, 4 máy bay trực thăng, bắn cháy 2 xe MI13, thu nhiều vũ khí trang bị của địch.
Với những công lao, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Tô Nào được Đảng, Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng ba; Huân chương Kháng chiến hạng nhất; Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì; Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhì, ba; Danh hiệu Chiến sĩ thi đua Liên khu 5 (trong kháng chiến chống Pháp) và nhiều phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà nước, quân đội.
Ngày 22/1/2010, đồng chí Tô Nào được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tô Ngọc Trác
![]() |
Đồng chí Tô Ngọc Trác (bí danh: Thành; tên thường gọi: Tô Trác) sinh năm 1917, quê ở thôn Phước Nhuận, xã Xuân Quang 3, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Tham gia cách mạng năm 1949. Đơn vị: Ban Dân tộc thiểu số ở miền Tây Phú Yên (Ban lãnh đạo Khu B). Chức vụ trước lúc hy sinh: Ủy viên Ban cán sự miền Tây tỉnh Phú Yên.
Tô Ngọc Trác sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo yêu nước (gia đình có 6 người con, đồng chí Trác là con thứ 6 trong gia đình). Ngay từ nhỏ chứng kiến cảnh quê hương đất nước bị chìm trong cảnh nô lệ, đồng chí đã sớm giác ngộ, đau với nỗi đau mất nước của nhân dân, năm 1949 thoát ly tham gia cách mạng. Từ năm 1949-1954, đồng chí đã gắn bó với đồng bào dân tộc thiểu số miền Tây Phú Yên (gồm 2 huyện Đồng Xuân và Sơn Hòa), tham gia xây dựng cơ sở cách mạng cùng ăn, cùng ở với đồng bào dân tộc thiểu số, gầy dựng phong trào cùng nhân dân các dân tộc miền Tây Phú Yên góp phần cùng quân dân toàn tỉnh đánh bại chiến dịch Át-lăng của thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Geneve, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy Phú Yên, Tô Ngọc Trác cùng một số đồng chí khác ở lại Phú Yên tiếp tục củng cố chính quyền, xây dựng phong trào đấu tranh của nhân dân ở miền Tây Phú Yên trực tiếp đấu tranh với Mỹ - Diệm. Trong thế trận mới, miền Tây Phú Yên chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng, là nơi che giấu bảo vệ cơ quan đầu não của Tỉnh ủy, chỗ dựa vững chắc của các huyện đồng bằng, huyết mạch nối liền sự chỉ đạo từ Trung ương, khu, tỉnh đến các huyện, xã. Miền Tây là kho dự trữ lực lượng, tiến có thế công, thoái có thế thủ… sẽ là hậu cứ vững chắc để giải phóng đồng bằng nên Tỉnh ủy chủ trương củng cố lại Ban cán sự Khu A và Khu B. Tháng 11/1954 theo chỉ thị của Liên khu 5, Tỉnh ủy cử các đồng chí Võ Mông (Ma Tam), Cao Xuân Thiêm (Văn Công), Ma Noa, Ma Cử, Tô Trác vào ban cán sự phụ trách Khu B chỉ đạo các xã Bầu Bèn, Phú Mỡ, Đá Mài, Thồ Lồ xây dựng cơ sở cách mạng đối phó với sự lùng bắt cộng sản của Mỹ, Diệm. Lúc này cơ quan Huyện ủy Sơn Hòa và Đồng Xuân tạm thời phải dời lên núi để bảo toàn lực lượng chi viện cho nhau trong cuộc đấu tranh một mất một còn.
Ngày 27/7/1960, đồng chí Tô Ngọc Trác, Bí thư chi bộ chỉ đạo lực lượng dân quân du kích đột nhập vào xã Phước Tân, huyện Sơn Hòa phát động quần chúng diệt 2 tên ác ôn. Trong đó có tên Thống Cường ở xã Xuân Phước nổi tiếng là gian ác; đồng bào Kinh, Thượng căm thù hắn cực độ.
Đêm 19/8/1960, đội công tác của đồng chí Ma Cao, do đồng chí Tô Trác phụ trách phối hợp với các lực lượng tổ chức diệt ác ôn ở ấp Nghĩa Phú, buôn Ma Niễm và đánh tan tổng đoàn dân vệ ở Trà Kê, xã Sơn Hội, huyện Sơn Hòa, thu 30 súng các loại. Phong trào cách mạng của quần chúng ở miền Tây lên cao ảnh hưởng đến tình hình nông thôn, đồng bằng và thị xã, thị trấn trong toàn tỉnh.
Ngày 1/2/1961, một đại đội địch từ La Hai, Đồng Xuân lên Phước Tân đốt phá buôn làng và lùa một đàn bò của đồng bào dân tộc. Đội du kích xã Phước Tân do đồng chí Tô Trác, Ủy viên Ban cán sự miền Tây chỉ huy phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh chặn đánh địch tại dốc Đứng. Trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, sau khoảng 15 phút, lực lượng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 30 tên, lấy lại được đàn bò cho người dân. Tuy nhiên lực lượng ta cũng bị tổn thất, 5 đồng chí hy sinh, đồng chí Tô Trác bị sa vào tay địch. Mặc dù địch đã dùng mọi hình thức tra tấn nhưng đồng chí Trác vẫn giữ vững được khí tiết cách mạng. Địch hèn hạ giết và cắt đầu đồng chí đưa về Ngọc Lãng, TX Tuy Hòa để tuyên truyền chiến thắng; uy hiếp tinh thần cán bộ và nhân dân; chúng bắt vợ con của đồng chí Trác đến chứng kiến cảnh rùng rợn này. Đồng chí Tô Trác đã anh dũng hy sinh, để lại cho đồng bào miền Tây niềm xúc động, tiếc thương vô hạn.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhất là trên cương vị Ủy viên Ban cán sự miền Tây, đồng chí Tô Ngọc Trác đã có những công lao đóng góp to lớn và hành động anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự hy sinh anh dũng của đồng chí Tô Ngọc Trác là biểu tượng bất tử của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, được lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên và lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Xuân ghi nhận và tôn vinh.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Tô Ngọc Trác được Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Độc lập hạng nhì.
Ngày 9/10/2014, đồng chí Tô Ngọc Trác được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lương Sỹ Bổ
![]() |
Lương Sỹ Bổ sinh năm 1929, quê ở phường Xuân Phú, TX Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, nhập ngũ năm 1946, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2/1951); hy sinh tháng 2/1963. Chức vụ trước lúc hy sinh: Trưởng Ban Binh vận huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
Đồng chí Lương Sỹ Bổ sinh ra trong một gia đình nông dân yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng. Tháng 2/1946, đồng chí tình nguyện gia nhập bộ đội Việt Minh, là chiến sĩ của Đại đội 1, Tiểu đoàn 2, Liên Trung đoàn 80-83. Tháng 12/1952, đồng chí được điều động về làm Bí thư Chi bộ xã Xuân Phương. Từ 1954-1959, đồng chí bị địch bắt giam ở nhà lao Ngọc Lãng. Sau khi ra tù, tháng 11/1961, đồng chí được Huyện ủy Sông Cầu điều động về làm Trưởng Ban Binh vận huyện.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Bổ trải qua nhiều nhiệm vụ, chức vụ khác nhau, nhưng luôn tận tâm tận lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, đồng chí được tổ chức phân công ở lại miền Nam xây dựng cơ sở cách mạng tại địa phương. Trên cương vị mới, đồng chí đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh chống chính sách “Tố cộng, diệt cộng” của kẻ thù. Trong cuộc đấu tranh này, đồng chí là hạt nhân tiêu biểu, một cán bộ luôn thể hiện được khí phách dũng cảm của người cộng sản, là tấm gương cho quần chúng nhân dân học tập, noi theo và giữ vững niềm tin với phong trào cách mạng. Đồng chí Bổ đã có nhiều công lao trong việc xây dựng phong trào cách mạng tại thị trấn Sông Cầu trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Sau khi tiếp quản chính quyền, bọn cảnh sát mật vụ, bọn tề ngụy biết đồng chí là một cán bộ cách mạng có nhiều uy tín, chúng bắt đồng chí và đưa ra “đấu tố”. Trước đông đảo dân chúng, đồng chí đã chỉ vào mặt tên Nguyễn Văn Phú, Trưởng chi Thông tin và chiêu hồi quận Sông Cầu, Trưởng Ban Tố cộng và nói: “Mày là thằng ngu, đi làm tay sai cho Mỹ - Diệm. Tao làm cộng sản là để đem lại công bằng cho xã hội, cho nhân dân, là đánh đuổi quân xâm lược Pháp và Mỹ cùng tay sai của chúng ra khỏi miền Nam Việt Nam”. Tên Phú và đồng bọn vô cùng giận dữ, tức tối, nhưng chúng không biết làm gì giữa đám đông quần chúng nhân dân đang nhất tề vỗ tay ủng hộ, địch đưa đồng chí về giam tại nhà lao Ngọc Lãng.
Suốt 4 năm ở nhà lao, chịu mọi sự tra tấn, đánh đập dã man nhưng đồng chí tuyệt đối trung thành với cách mạng, kiên quyết không khai, cuối cùng địch phải thả đồng chí. Sau khi ra tù, đồng chí được cấp trên bổ nhiệm làm Trưởng Ban Công tác binh vận huyện Sông Cầu, hoạt động bí mật ở địa phương với nhiệm vụ vận động nhân dân bám trụ phá ấp chiến lược; tuyên truyền thuyết phục nhiều thanh niên địa phương thoát ly tham gia cách mạng. Đặc biệt có ông Trần Bính, một nhân sĩ trí thức của địa phương là quan lại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn được ông thuyết phục đi theo cách mạng.
Tháng 5/1962, đồng chí cùng một số đội viên vũ trang công tác ở xã Xuân Phương đột nhập vào thôn Long Phước treo cờ Mặt trận của ta để tập trung nhân dân mít tinh làm cho Mỹ - Diệm thấy rằng việc xây ấp chiến lược không ngăn cản được phong trào cách mạng trên mảnh đất Xuân Phương.
Ngày 23/2/1963, trên đường công tác làm nhiệm vụ ở thôn Bình Nông, do có kẻ trình báo, đồng chí bị địch phục kích bắn bị thương gãy xương đùi. Tổ công tác của ta nổ súng chiến đấu yểm trợ, cứu đồng chí Bổ nhưng lực lượng của ta chỉ có 3 người không thể chống cự với một lực lượng gồm bảo an, dân vệ địch, nên phải rút lui. Mặc dù bị thương nặng, đồng chí Bổ vẫn cố gắng lết vào bìa rừng tự xé quần áo băng bó vết thương, nhưng máu ra nhiều khiến đồng chí ngất đi. Địch lần theo vết máu siết chặt vòng vây và phát hiện đồng chí nằm thoi thóp nhưng không dám xông vào, chúng bắn dọa khủng bố tinh thần, kêu gọi đồng chí đầu hàng. Chờ đợi không có kết quả, địch ùa vào, đồng chí dốc hết sức bắn viên đạn cuối vào đội hình địch. Biết súng đồng chí đã hết đạn, địch nhảy vào bắt sống. Địch băng bó vết thương nhưng đồng chí cắn răng chịu đau, chống cự quyết liệt, chúng tức giận lấy giày đạp vào vết thương và dùng võng khiêng về Chi khu huyện Sông Cầu để tiếp tục thuyết phục đồng chí chiêu hồi. Trên đường từ Bình Nông về Sông Cầu, đến suối Bà Ao, đồng chí Bổ đã cắn lưỡi, giữ tròn khí tiết của người cộng sản kiên trung, bất khuất.
Được tin đồng chí Lương Sỹ Bổ anh dũng hy sinh, các đồng chí trong căn cứ và cơ sở cách mạng thôn Long Phước, thị trấn Sông Cầu (nay là Long Phước Đông, phường Xuân Phú) vô cùng thương tiếc và khâm phục sự gan dạ, dũng cảm. Đồng chí Ngô Cam lúc bấy giờ công tác tại bộ phận quân y, nghe tin đồng chí Bổ hy sinh, đã thốt lên câu nói luyến tiếc “Đồng chí là linh hồn của Chi bộ Đảng chúng tôi”.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Lương Sỹ Bổ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì.
Ngày 9/10/2014, đồng chí Lương Sỹ Bổ được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyễn Thị Loan
![]() |
Nguyễn Thị Loan (bí danh: Hiền) sinh ngày 19/3/1949, quê quán: thôn Phú Hòa, xã An Mỹ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tham gia cách mạng vào tháng 1/1965, hy sinh ngày 29/10/1972. Chức vụ trước hy sinh là Bí thư Chi bộ xã An Mỹ, kiêm chính trị viên Xã đội An Mỹ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Đồng chí Nguyễn Thị Loan sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Năm 1965, đồng chí Loan được cấp trên đưa lên vùng căn cứ cho theo học lớp y tá cứu thương ngắn hạn. Sau đó đồng chí được tổ chức giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng, vận động và trực tiếp tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị chống địch càn quét, chống dồn dân lập ấp gây cho địch nhiều khó khăn trong kế hoạch “Bình định nông thôn”. Cùng với công tác đấu tranh chính trị, đồng chí còn trực tiếp làm công tác binh vận, vận động được 7 lính ngụy rời bỏ hàng ngũ địch quay về với cách mạng, xây dựng được 3 cơ sở đặc tình trong hàng ngũ địch cung cấp cho ta nhiều nguồn tin quan trọng. Trong hai năm 1968-1969, đồng chí đã xây dựng được 4 đội du kích B ở thôn, mỗi đội từ 3-4 đội viên; trực tiếp chỉ huy lực lượng du kích B của xã đánh 9 trận lớn, nhỏ tiêu diệt 15 tên, làm bị thương 9 tên, gây cho địch nhiều hoang mang lo sợ. Năm 1969, đồng chí vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng, được chi bộ phân công tiếp tục hoạt động hợp pháp trong vùng địch.
Tháng 1/1970, cơ sở bị lộ, đồng chí bị địch bắt và giam tại Trung tâm Cải huấn Tuy Hòa, Phú Yên. Tháng 3/1971, đồng chí vượt ngục trở về chiến khu và được phân công giữ chức Xã đội phó, phụ trách Mũi công tác xã An Mỹ, tích cực tham gia đánh địch diệt ác, phá kèm, lập thành tích xuất sắc, từ tháng 3/1971-3/1972, đồng chí đã tiêu diệt được 5 tên địch.
Tháng 3/1972, đồng chí được phân công giữ chức Bí thư Chi bộ xã An Mỹ. Là một bí thư chi bộ trẻ, nhiệt huyết và hết sức xông xáo, đồng chí đã ngày đêm sát cánh cùng nhân dân, chăm lo xây dựng thực lực chính trị ở từng cơ sở thôn, xóm và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân. Đồng chí thường xuyên bí mật về làng (vùng địch chiếm giữ), theo dõi các hoạt động của địch để có kế hoạch kịp thời chỉ đạo anh em du kích đánh địch.
Đêm 27/10/1972, đồng chí về làng Phú Long, xã An Mỹ (nơi địch dồn dân tạm chiếm) để trực tiếp chỉ đạo nhân dân đấu tranh chính trị đòi Mỹ ký kết Hiệp định Paris. Sau một ngày ở lại trong vùng địch, cơ sở bị lộ. Địch dẫn một trung đội dân vệ, một trung đội cảnh sát tới bao vây khu vực đồng chí trú ẩn. Với 2 quả lựu đạn, trong tư thế bao vây, đồng chí đã bình tĩnh ném quả lựu đạn thứ nhất làm bị thương một tên địch. Biết đồng chí là bí thư chi bộ xã đã từng xây dựng nhiều cơ sở cách mạng, địch tập trung lực lượng bao vây và dùng loa kêu gọi đồng chí đầu hàng, quyết bao vây bắt sống đồng chí để khai thác. Bị bao vây, chị biết rằng không thể thoát khỏi mạng lưới cảnh sát, dân vệ đang siết chặt và chị cũng hiểu rõ ý đồ thâm độc của kẻ thù là bao vây bắt sống chị để khai thác, quyết không để sa vào tay giặc, không để bọn chúng dễ dàng bắt sống, còn quả lựu đạn cuối cùng, đồng chí Nguyễn Thị Loan chờ bọn địch xông vào, chị rút chốt lựu đạn, giết chết 1 tên địch và chị đã anh dũng hy sinh ở tuổi 23.
Quá trình hoạt động và sự hy sinh anh dũng của đồng chí Nguyễn Thị Loan là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng về tinh thần yêu nước trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dám xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân địa phương cảm phục, ngợi ca. Sau khi chị hy sinh, nhiều bài thơ, bài hát dân ca, bài chòi, các đề tài lịch sử địa phương ca ngợi chị, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cách mạng của cán bộ, nhân dân địa phương.
Thể theo nguyện vọng của nhân dân địa phương, vào tháng 7/2003, tên chị Nguyễn Thị Loan được đặt cho một con đường ở thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Nguyễn Thị Loan được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng ba, 2 bằng khen của Khu 5, 5 bằng khen của tỉnh Phú Yên.
Ngày 9/10/2014, đồng chí Nguyễn Thị Loan được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
VIỄN BÌNH