Núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) - ngọn núi tên tuổi vào bậc nhất của tỉnh Phú Yên là danh thắng cấp quốc gia. Trải qua thời gian, núi Đá Bia đã in sâu trong tâm thức bao thế hệ người dân đất Phú. Đá Bia sừng sững giữa gió núi, mây ngàn là chứng tích biết bao sự kiện bi hùng của vùng đất một thời mở cõi, dựng nước và giữ nước.
“Ông Bia” được sử sách ghi lại là nơi vua Lê Thánh Tông khắc chữ trên đá vào năm 1471 trong công cuộc mở cõi phương Nam - Ảnh: T.QUỚI |
THƠ TRÊN NGỌN NÚI THIÊNG
Núi Đá Bia gắn với một sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt vào thế kỷ XV, dưới triều đại nhà Lê. Đó là sự kiện vua Lê Thánh Tông thống lĩnh cuộc nam chinh đánh thành Đồ Bàn, mở rộng bờ cõi về phía nam vào năm 1471. Sau chiến thắng tại Đồ Bàn, vua Lê Thánh Tông đã tổ chức cuộc hành quân vượt đèo Cù Mông tiến về phía nam đến dãy núi Đại Lãnh, chọn lấy một ngọn núi cao và cho khắc chữ vào khối đá lớn trên đỉnh núi với mục đích phân định ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép: “Núi Thạch Bi ở Phú Yên là chỗ tiên triều phân định địa giới với Chiêm Thành, núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn núi khác. Thánh Tông đánh được Chiêm Thành, lấy đất đặt xứ Quảng Nam, lập dòng dõi vua Chiêm Thành cũ, phong cho đất từ núi ấy trở về phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, xoay lưng về phía bắc, mặt về phía nam, lâu ngày dấu chữ đã mòn mất”. Sự kiện này cũng được ghi lại trong nhiều sách sử khác như: Hoàng Việt dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Phương đình dư địa chí, Xứ Đàng Trong (Phan Khoang), Địa dư tỉnh Phú Yên...
Về nội dung văn bia, các tài liệu có sự giải chép khác nhau, tựu trung có 3 nội dung như sau: “Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong, An Nam quá thử, tướng tru binh chiết” nghĩa là “Chiêm Thành vượt qua nơi này, binh thua nước mất, An Nam vượt qua nơi này, tướng chết quân tan”; hoặc “Dĩ nam Chiêm Thành, dĩ bắc dân triều mệnh Việt Nam” nghĩa là “Từ đây về nam là Chiêm Thành, từ đây về bắc dân chịu mệnh Việt Nam”; cũng có tài liệu nói rằng văn bia chỉ là hai chữ “Hồng Đức”, là niên hiệu của vua Lê Thánh Tông.
Núi Đá Bia cao 706m, sừng sững uy nghi ở phía bắc dãy đèo Cả. Trên đỉnh núi là một khối đá khổng lồ cao 76m, có hình thù kỳ lạ, sáng sớm hay về chiều thường có mây trắng bao phủ chung quanh, khi ẩn khi hiện.
Hệ sinh thái được bảo tồn khá phong phú với những loài thực vật và động vật đặc trưng của rừng nhiệt đới. Đứng trên đỉnh núi Đá Bia có thể hướng tầm nhìn về những địa danh nổi tiếng như: vịnh Vũng Rô, đèo Cả, bãi Bàng, bãi Môn - mũi Điện, núi Hiềm, biển Hồ, đập Hàn, vịnh Vân Phong (Khánh Hòa)…
Từ xa xưa, núi Đá Bia được xem là ngọn núi thiêng với tên gọi là Lingaparvata (có nghĩa là Linga - đấng đại sơn thần, hiện thân của thần Siva trong tín ngưỡng của người Chăm). Năm 1836, vua Minh Mạng cho thể hiện hình tượng dãy núi Đại Lãnh (có cả núi Đá Bia) vào Tuyên Đỉnh, một trong 9 chiếc đỉnh đồng đặt tại Thế Miếu ở Đại Nội kinh thành Huế.
Với những cứ liệu lịch sử cùng địa thế, cảnh quan, hệ sinh thái đặc biệt, núi Đá Bia được công nhận di tích thắng cảnh cấp quốc gia năm 2008.
ƯỚC VỌNG ĐỀN THỜ VUA LÊ VÀ DU LỊCH TÂM LINH
Truyền thuyết về bài thơ của vua Lê Thánh Tông gắn với sự tích núi Đá Bia được lưu truyền trong dân gian có ý nghĩa tôn vinh và thể hiện lòng tri ân của hậu thế đối với công trạng của bậc tiền nhân mà đặc biệt là vua Lê Thánh Tông, trong thời kỳ đầu mở đất về phương Nam. Ở Phú Yên đã có một số trường học, tên đường được mang tên vị vua tài trí, văn võ song toàn Lê Thánh Tông. Phú Yên còn có đền thờ vua Lê Thánh Tông, xây dựng tại thôn Long Uyên, xã An Dân, huyện Tuy An, nguyên là thủ phủ của tỉnh ở thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ngôi đền này đã bị đổ nát, chỉ còn lại những mảng tường bằng gạch, đá và bức bình phong ở phía trước.
Để tỏ lòng tri ân, tưởng nhớ vua Lê Thánh Tông, vị vua anh minh có công lao to lớn đối với lịch sử dân tộc và ghi dấu ấn đậm nét trên vùng đất Phú Yên, thiết nghĩ rất cần xây dựng một đền thờ vua Lê Thánh Tông uy nghi, xứng tầm tại núi Đá Bia để nhân dân ngưỡng vọng, tri ân. Đây cũng chính là nếp sống văn hóa truyền thống có từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
Ở góc độ của ngành Du lịch, nếu có một đền thờ vua Lê Thánh Tông gắn liền với danh thắng núi Đá Bia sẽ là điều kiện để phát triển du lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch sinh thái trong cụm quần thể các danh thắng quốc gia: núi Đá Bia, bãi Môn - mũi Điện, di tích Tàu không số - Vũng Rô.
Lê Thánh Tông (1442-1497) là vị hoàng đế thứ năm của nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông tên thật là Lê Tư Thành, còn có tên khác là Lê Hạo. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là nhà văn hóa lớn với nhiều cải cách quan trọng và là một người coi trọng hiền tài. Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông nên còn được gọi là luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm nhất trên thế giới. Ngoài ra ông đã có công trong việc mở mang bờ cõi Đại Việt về phương Nam. Theo đó núi Đá Bia ở Phú Yên là cột mốc lịch sử gắn liền với truyền thuyết về bài thơ của Lê Thánh Tông khắc lên tảng đá trên đầu non. |
Thạc sĩ NGUYỄN HOÀI SƠN