Cần quy định rõ nhiệm kỳ của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan trong bộ máy Nhà nước

Cần quy định rõ nhiệm kỳ của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan trong bộ máy Nhà nước

Hiến pháp hiện hành quy định nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới; Thủ tướng được Chủ tịch nước đề cử và được Quốc hội phê chuẩn; HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

Hiến pháp hiện hành quy định nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm việc cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới; Thủ tướng được Chủ tịch nước đề cử và được Quốc hội phê chuẩn; HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND có chủ tịch, phó chủ tịch và các ban…

Theo những quy định trên thì nhiệm kỳ của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan trong bộ máy Nhà nước là 5 năm, nhưng không quy định rõ người đảm nhiệm những cương vị, chức vụ đó là mấy nhiệm kỳ, bao nhiêu năm. Thực tế trong quá trình ra đời và phát triển của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) cho thấy, người giữ cương vị Chủ tịch nước lâu nhất từ trước đến nay là Bác Hồ với 24 năm, kế tiếp là Bác Tôn, hơn 10 năm; các đồng chí Trường Chinh, Võ Chí Công, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết giữ cương vị Chủ tịch nước từ hơn 5 năm đến hơn 8 năm (hơn một nhiệm kỳ). Người giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ với thời gian lâu nhất là đồng chí Phạm Văn Đồng (từ kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I đến các khóa II, III, IV, V, VI, VII), kế đến là đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, từ tháng 2/2006 đến nay.

Vì vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này cần quy định rõ nhiệm kỳ của người đứng đầu Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan trong bộ máy Nhà nước là không quá 2 nhiệm kỳ liên tục (mỗi nhiệm kỳ 5 năm). Đồng thời quy định rõ hơn trách nhiệm của từng người ở từng vị trí công tác này.

Mặt khác, Điều 6 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Quy định này khẳng định tính nhất quán chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân và mọi quyền lực thuộc về nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ngoài việc hiến định nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND, dự thảo bổ sung "và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" nhưng không nêu rõ là cơ quan nào. Là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra hay cơ quan không phải do nhân dân bầu ra? Do vậy, theo tôi Điều 6 nên có sự sửa đổi phù hợp, cụ thể hơn.

Trong dự thảo có một chương mang tên "Chính quyền địa phương" nhưng trong toàn chương không có điều khoản nào nêu khái niệm này. Đề nghị cần bổ sung, làm rõ khái niệm “chính quyền địa phương”. Hay tại khoản 1, Điều 115, dự thảo hiến định chia các đơn vị hành chính thành 4 cấp. Song trên thực tế, do tính chất đặc thù, ở một số nơi chính quyền địa phương không thành lập theo tất cả các cấp đơn vị hành chính. Như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, huyện Côn Đảo của tỉnh này không có cấp xã, phường, thị trấn. Vì tính chất và yêu cầu quản lý đô thị khác nhiều với khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo nên không nhất thiết quy định có đầy đủ 4 cấp đơn vị hành chính mà có thể thành lập chính quyền địa phương đô thị một hoặc hai cấp hành chính tổ chức ở thành phố trực thuộc trung ương và sẽ do luật định.

Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có điểm mới là không quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn của HĐND, UBND và để mở việc thành lập HĐND và UBND sẽ do luật định. Theo tôi, nếu không hiến định chính quyền địa phương bao gồm HĐND và UBND, hoặc nơi không tổ chức HĐND và để nhân dân bầu trực tiếp UBND thì có thể không phải là bước tiến về dân chủ so với các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992. Bởi nếu UBND không phải do HĐND bầu ra thì UBND không thể là cơ quan chấp hành của HĐND; và ngược lại, nếu không tổ chức HĐND thì UBND cùng cấp chỉ là cơ quan hành chính. Điều này mâu thuẫn với khoản 2 Điều 116. Vì vậy, Hiến pháp cần phải định hướng rõ chức năng, vai trò, tổ chức và nhiệm vụ trọng yếu của HĐND để làm cơ sở cụ thể hóa trong luật định và quan trọng là không làm mất đi quyền làm chủ của nhân dân thông qua cơ quan đại diện. Do đó, Điều 115 của dự thảo nên chỉnh sửa lại theo hướng "chính quyền địa phương bao gồm HĐND và UBND được thành lập ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý".

ĐẶNG NGA (phường 7, TP Tuy Hòa)

Từ khóa:

Ý kiến của bạn