Những hạt giống đầu tiên của lực lượng vũ trang ra đời ngay trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931). 10 năm sau, ngày 14/2/1941, đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn chuyển thành Việt Nam cứu quốc quân. Cùng thời gian này, đội du kích Nam Kỳ được thành lập trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940).
Từ những đơn vị vũ trang nhỏ lẻ, theo sự ủy nhiệm của Bác Hồ, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tập hợp lại, thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đội có 34 cán bộ, chiến sĩ, được biên chế thành 3 tiểu đội.
Dưới lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh, toàn đội đã long trọng tuyên đọc 10 lời thề danh dự: Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt quân thù, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng, ra sức đoàn kết và nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật nghiêm minh của quân đội cách mạng...
Trong hồi ký “Từ nhân dân mà ra”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “...Một ngày trước lễ thành lập đội, chúng tôi nhận được một bức thư của Bác, đặt trong một bao thuốc lá. Giở ra, là chỉ thị của Bác về việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ thị thành lập đội của Bác có tính chất như một cương lĩnh quân sự của Đảng ta, gồm các ý chính: Kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang và phương châm xây dựng ba thứ quân của lực lượng vũ trang, phương thức kết hợp quân sự với chính trị, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng vũ trang nhân dân.
Chỉ 2 ngày sau khi thành lập, chấp hành chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu” của Bác, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã hạ đồn Phay Khắt (24/12) và Nà Ngần (25/12). Hai trận thắng oanh liệt này đã mở đầu cho truyền thống bách chiến bách thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 4/1945, theo quyết định của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Việt Nam cứu quốc quân đã hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, các lực lượng vũ trang cách mạng trở thành Quân đội nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua 2 cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, quân đội nhân dân đã trưởng thành với đầy đủ các binh chủng lục quân, hải quân, không quân... ngày càng hiện đại.
Ngày nay, trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đất nước ta đứng trước những thuận lợi mới, nhưng cũng không ít thử thách, khó khăn. Chủ nghĩa đế quốc vẫn đang tiến hành các âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”. Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang chúng ta càng phải thường xuyên đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu, nâng cao chất lượng mọi mặt của quân đội. Nền kinh tế của đất nước tuy còn hạn hẹp, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn ra sức đầu tư cho quân đội những phương tiện, vũ khí hiện đại, đủ sức đương đầu với kẻ thù mạnh nhất, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống, để bảo vệ vững chắc, toàn vẹn vùng trời, vùng biển, đất liền, thềm lục địa và các hải đảo xa xôi của Tổ quốc.
Quân đội nhân dân là con đẻ của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân đùm bọc, chăm sóc, thương yêu, đã làm tròn và quyết sẽ làm tròn mọi nhiệm vụ nặng nề, vẻ vang mà nhân dân giao phó.
BẰNG TÍN