(Trích diễn văn do Bí thư Tỉnh ủy Đào Tấn Lộc đọc tại lễ kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và 20 năm UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà Văn hóa kiệt xuất Việt Nam”)
Hôm nay, cùng với đồng bào, đồng chí trong cả nước, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh tổ chức mittinh trọng thể kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2010) và 20 năm Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà Văn hóa kiệt xuất Việt Nam”. Trong giờ phút thiêng liêng này, chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, Người tổ chức, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Người anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
![]() |
Đoàn nghi thức dâng các lẵng hoa của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQVN tỉnh và các huyện vào nhà thờ Bác Hồ - Ảnh: DƯƠNG THANH XUÂN
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung) sinh ngày 19/5/1890 tại làng Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho thanh bạch, yêu nước và sớm có lòng yêu nước, thương dân. Từ năm 1858, sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, dưới sự lãnh đạo của các sỹ phu yêu nước lúc bấy giờ, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào yêu nước nổ ra như cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1908), phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo (1904-1908), cuộc vận động cải cách do Phan Chu Trinh khởi xướng (1905-1908), cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (Bắc Giang) do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1885-1913)… Mặc dù các phong trào yêu nước, chống Pháp liên tục diễn ra, người trước ngã, người sau đứng lên, nhưng tất cả các phong trào, các cuộc nổi dậy ấy đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn.
Chứng kiến cảnh nhân dân sống lầm than, cực khổ dưới ách thống trị thực dân tàn bạo và sự thất bại của các sĩ phu yêu nước tiền bối, năm 1911, người thanh niên ưu tú Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Với hành trang ban đầu là lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do, Người đã chọn con đường không giống với những con đường mà các bậc cách mạng đàn anh đã từng đi. Bước chân của Người đã đặt đến những trung tâm văn minh nhất của thế giới thời đó và những nơi bần cùng, khốn khổ nhất trên trái đất này.
Người đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Khi đến các nước tư bản phát triển ở châu Âu và Bắc Mỹ, Người nhìn thấy cảnh giai cấp công nhân bị áp bức, bóc lột thậm tệ. Khi sang các nước châu Á, châu Mỹ và Mỹ latinh, Người đã tận mắt thấy nhiều dân tộc bị thực dân thống trị hết sức hà khắc, dã man. Người cũng thấy rõ ý chí quật cường, bất khuất của các dân tộc bị áp bức, tinh thần đấu tranh của giai cấp công nhân, những người lao động cùng khổ ở khắp mọi nơi, kể cả nhân dân lao động ở chính nước Pháp. Và Người đi đến kết luận “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Từ lòng yêu nước, thương dân, đến sự phân biệt xã hội có “hai giống người”, ở Nguyễn Ái Quốc đã có sự chuyển biến về tư tưởng sâu sắc, hình thành ý thức giai cấp rõ rệt khiến Người đến với chủ nghĩa Lênin một cách tự nhiên, như một tất yếu lịch sử.
Những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, đồng thời được nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản, của Liên Xô, đặc biệt là Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã tích lũy được những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn vô cùng phong phú, hình thành dần đường lối cứu nước đúng đắn. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức “Cộng sản đoàn” là nòng cốt cho Hội, đào tạo cán bộ để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam.
Mùa xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Người đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông Dương, thành lập Đảng Cộng sản Việt
Ngày 3/2/1930 đánh dấu một mốc son chói lọi, một bước ngoặt lịch sử của cách mạng nước ta với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Việc giành được chính quyền đã khó, việc giữ chính quyền còn khó hơn nhiều. Chính quyền cách mạng còn non trẻ mới ra đời đã cùng lúc phải đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trước tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã cùng với Trung ương Đảng sáng suốt, tài tình, lãnh đạo đất nước vượt qua mọi hiểm nghèo, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.
Đất nước ta, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã anh dũng trường kỳ kháng chiến suốt 30 năm chống chủ nghĩa thực dân cũ, đứng đầu là thực dân Pháp và chống chủ nghĩa thực dân mới, đứng đầu là đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy khí phách anh hùng bất khuất của cả dân tộc bằng những lời kêu gọi vang dậy núi sông: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết tâm giành lại độc lập dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”…
Thực hiện Di chúc của Người “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”, từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đảng ta đã luôn kiên định theo những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và tiến hành sự nghiệp đổi mới trong lãnh đạo đất nước, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giành được những thắng lợi to lớn, củng cố độc lập dân tộc, tiến bước vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, vượt qua nhiều tình huống phức tạp và có lúc rất hiểm nghèo. Có thể nói sau gần hai mươi lăm năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử cả về thực tiễn và lý luận… Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra là đúng đắn, sáng tạo; chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta do Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta lựa chọn là phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hưởng thọ 79 tuổi. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Lễ truy điệu Hồ Chủ tịch ngày 9/9/1969 nêu rõ: “Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, Người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng Người đã để lại cho chúng ta những di sản tinh thần vô giá, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Từ Đại hội Đảng lần thứ II đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, một lần nữa Đảng ta khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển của giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những thành tựu kỳ diệu, đó là: thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước ta trở thành một nước độc lập, thống nhất, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng được một Đảng Cộng sản kiên định, mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; một Nhà nước của dân, do dân, vì dân với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng được lực lượng vũ trang cách mạng, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; một Mặt trận dân tộc thống nhất tiêu biểu cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở lấy liên minh công- nông- trí thức làm nền tảng, không ngừng củng cố và mở rộng; một tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. “Việt Nam- Hồ Chí Minh” đã trở thành biểu tượng của niềm tin, ý chí, lương tâm và phẩm giá của giai cấp cần lao bị áp bức và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
![]() |
Biểu diễn văn nghệ chào mừng 120 năm sinh nhật Bác - Ảnh: D.T.X
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ để lại những di sản vô giá cho Đảng ta, nhân dân ta, mà còn để lại cho nhân dân thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tinh thần dân tộc và tinh hoa văn hóa của thời đại mang tính nhân văn sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống văn hóa cổ - kim, đông - tây, đặc biệt là tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, đỉnh cao của tư tưởng nhân văn của nhân loại, nhờ đó đã kết tinh ở Người những giá trị văn hóa vừa dân tộc, vừa hiện đại, vừa nhân văn. Là chiến sĩ tiên phong của nền văn học - nghệ thuật, báo chí cách mạng, đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho công bằng, tình thương và lẽ phải trên trái đất, Người đã có những đóng góp phong phú trên lĩnh vực văn hóa. Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người được tỏa sáng trong từng việc làm, từng cử chỉ, từng mối quan hệ với đồng chí, đồng bào và bạn bè quốc tế. Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người và niềm tin đối với con người hết sức bao la, sâu sắc, tất cả vì con người, tất cả do con người. Đó là một nhân sinh quan, một triết lý sống rất nhân văn, là đạo đức cách mạng của người Cộng sản. Người quan niệm: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”. Chính vì vậy, suốt đời, Người đã chiến đấu chống áp bức, bất công, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân, cho dân tộc, cho nhân loại. Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc, mà còn là một nhà hoạt động thực tiễn đầy tài năng; không chỉ là một nhà chính trị vĩ đại, mà còn là một nhà văn hóa kiệt xuất. Ngay từ năm 1923, nhà thơ Nga O-xíp Man-đen-xtan đã nhận xét rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải là văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai”.
Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và nhân loại, Khóa họp Đại Hội đồng UNESCO lần thứ 24 tại Paris (tháng 11 năm 1987) đã thông qua Nghị quyết 24C/18.65 về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Nghị quyết nêu rõ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội…”; “những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam; và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau của các dân tộc”. UNESCO cũng đã khuyến nghị các quốc gia thành viên cùng tham gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng việc tổ chức các hoạt động cụ thể để tưởng niệm Người, qua đó làm cho mọi người hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của những tư tưởng và những cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người.
Đây chính là sự ghi nhận của một tổ chức quốc tế lớn thuộc Liên Hiệp Quốc về những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; đồng thời là niềm tự hào chung của dân tộc Việt Nam và của cả bạn bè quốc tế…
Kể từ khi Đại hội đồng UNESCO, khóa 18 (1974), thông qua “Nghị quyết về việc tổ chức kỷ niệm các danh nhân và những sự kiện đã để lại dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của nhân loại”, đến nay đã có 21 danh nhân văn hóa được thế giới kỷ niệm theo Nghị quyết của Đại hội đồng UNESCO, trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh được công nhận là vĩ nhân, vừa là ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, vừa là NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT”; “Việc các nước thông qua UNESCO, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những thể hiện sự đánh giá cao những giá trị tinh thần và đóng góp to lớn của Người vào sự nghiệp tiến bộ chung của nhân loại, mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân thế giới đối với cuộc đời rất con người của Người và đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt
Thực hiện Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều hoạt động cụ thể đã được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới. Các cuộc hội thảo quốc tế nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sau đó, đã đánh giá cao những đóng góp quan trọng của Người vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. Phát biểu tại Hội thảo quốc tế “Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa lớn”, tổ chức tại Hà Nội, tháng 3 năm 1990, Tiến sĩ M.Átmet (Modagat Ahmet) Giám đốc UNESCO khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO, đã coi đó “là một niềm vinh dự” và khẳng định “Hội nghị UNESCO phiên thứ 24, đã quyết định kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người vào năm 1990. Đây là một cử chỉ tôn kính đối với một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập. UNESCO rất vui sướng được tham gia vào sự kiện đáng ghi nhớ này. Điều đó biểu hiện sự cam kết sâu sắc của tổ chức này trong việc duy trì các giá trị và công lao của nhân vật vĩ đại được nhân loại ghi nhận và kính trọng”. Và ông đã nhấn mạnh rằng: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng trên trái đất này”.
Đặc biệt tại Ấn Độ, với tinh thần coi việc kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nghĩa vụ quốc tế mà còn là trách nhiệm quốc gia của toàn thể nhân dân Ấn Độ. Chính phủ đã thành lập Ủy ban quốc gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, do Thủ tướng Chanđar Sêkha làm Chủ tịch. Nhiều hình thức kỷ niệm trọng thể được tổ chức kéo dài tròn một năm nhằm tỏ lòng kính trọng, ca ngợi những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiến trình phát triển của nhân loại và khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn cờ cổ vũ đối với các dân tộc đấu tranh cho hòa bình và tự do trên toàn thế giới”.
Năm nay, nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Người, tại Hà Nội, một cuộc hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề: “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” đã được tổ chức với sự có mặt của 55 đại biểu quốc tế đến từ 22 nước trên thế giới. Phát biểu khai mạc Hội thảo, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài và người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chiến sĩ cách mạng kiên cường và người bạn thân thiết của các dân tộc trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng phong phú, cao đẹp và đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Tên tuổi và sự nghiệp của Người sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng chúng ta. Người đã để lại cho chúng ta gia tài đồ sộ, một di sản hết sức quý báu. Đó là: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Thời đại Hồ Chí Minh và Tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...”
Cũng tại hội thảo này, nhà báo, nhà hoạt động chính trị Mê-hi-cô Ignacio Golzales Janzen đã bày tỏ: “Xin cám ơn người thầy Hồ Chí Minh về những lời dạy và tấm gương quý báu. Một tấm gương tuyệt vời về tình yêu thương và tư chất cách mạng thể hiện trong đức tính cá nhân, trong nhiệm vụ chính trị, trong công tác quần chúng, trong công tác tổ chức Đảng, trong chính sách Mặt trận, trong cuộc đấu tranh vì khối đại đoàn kết toàn dân, trong sự lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trong công cuộc xây dựng một xã hội mới và trong sự tin tưởng về một nhân loại tự do”.
* * *
Ở Phú Yên, từ tháng 10/1930 sau khi thành lập được Chi bộ Đảng đầu tiên thì ảnh hưởng của Đảng đã lan rộng nhanh chóng trong toàn tỉnh, tổ chức đảng không ngừng lớn mạnh và lãnh đạo giành chính quyền toàn tỉnh thành công trong cách mạng Tháng 8. Sau đó, trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Phú Yên một lòng một dạ đi theo ngọn cờ của Bác và của Đảng, cùng với cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Phú Yên tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, tự lực tự cường vượt qua nhiều khó khăn thách thức, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển sản xuất, ổn định đời sống, từng bước giành được những kết quả rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… Đặc biệt, từ sau ngày tái lập tỉnh và hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế sau chiến tranh chủ yếu là thuần nông với nông nghiệp chiếm gần 80% GDP, đến nay nền kinh tế của tỉnh đã có bước phát triển khá toàn diện và vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với GDP trong nông nghiệp còn dưới 30%, công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 70%. Trong 8 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 11%. Năm 2009 dù bị tác động do tình hình suy giảm kinh tế thế giới và thiệt hại nặng nề do thiên tai, nhưng tốc độ tăng GDP vẫn đạt 11,1%; GDP bình quân đầu người năm 2009 là 13 triệu đồng/năm, tăng gấp 17 lần so với năm 1976; bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho hơn 25 nghìn lao động. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh không ngừng được cải thiện, số hộ nghèo hằng năm giảm hơn 2%.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có tiến bộ, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Điều đáng phấn khởi, đồng thời cũng là nhân tố có tính quyết định của sự phát triển, đó là sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội ngày càng tăng. Trong những năm gần đây, thông qua Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân đã có sự chuyển biến tích cực trong việc học tập và làm theo gương Bác, góp phần quan trọng trong việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng tập thể, cá nhân. Chúng ta khẳng định rằng, thực hiện tốt nội dung Cuộc vận động chính là sự thể hiện tấm lòng biết ơn của chúng ta đối với Bác kính yêu.
Hôm nay, tại Nhà thờ Bác Hồ trên vùng đất chiến khu xưa Sơn Định, trong không khí thành kính, trang nghiêm của buổi lễ kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Người, chúng ta nguyện sẽ mãi mãi đoàn kết một lòng đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chọn và dẫn dắt dân tộc ta đi đến ấm no, phồn vinh, hạnh phúc.
Thay mặt Tỉnh ủy, tôi đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể, các lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, quán triệt quan điểm “thi đua là yêu nước” của Bác, mỗi tổ chức, mỗi người đều nỗ lực thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, góp phần hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết Đại hội XIV của Tỉnh Đảng bộ; tạo tiền đề tốt nhất để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm và chiến lược 10 năm sắp tới, xây dựng quê hương, đất nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ đã từng căn dặn. Đồng thời nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, mọi hành động xâm lược của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tiếp tục đưa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ngày càng sâu rộng hơn, qua đó góp phần xây dựng nền tảng tinh thần xã hội và không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”. Mỗi cán bộ, đảng viên dù bất cứ cương vị nào phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức theo gương Bác, nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Ba là, quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” của Bác, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân trong hệ thống chính trị phải sâu sát, gắn bó với nhân dân, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cán bộ, đảng viên phải học tập và thực hiện đúng lời dạy của Người: cán bộ, đảng viên là công bộc của nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải là người gương mẫu nhất thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước như Bác đã từng nhắc nhở “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Có như vậy dân mới tin Đảng, mới gắn bó với Đảng, mới thực hiện nghiêm các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, sớm cùng nhau xây dựng quê hương, đất nước đi lên giàu mạnh.
Bốn là, phải chuẩn bị và tổ chức thực hiện thành công đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Đại hội XI của Đảng, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, theo đúng Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị và Kế hoạch 71 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 20 năm UNESCO công nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng giải phóng dân tộc – Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam” là dịp để toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân tỉnh ta tưởng nhớ đến công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc; đồng thời cũng là dịp để chúng ta tiếp tục học tập, làm theo những tư tưởng vĩ đại của Người, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
(*) Tựa bài do Báo Phú Yên đặt