Dù mỗi người một công việc, gặp Bác trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng từ những lời dặn dò, lời dạy của Bác những người con đất Việt ai cũng ra sức chiến đấu, lao động, góp phần làm cho cuộc sống gia đình, quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.
NHỚ LỜI DẠY CỦA BÁC, TĂNG GIA SẢN XUẤT, CHỐNG ĐÓI NGHÈO
Sinh năm 1933, từ một anh du kích giữ làng, 21 tuổi Ma Vin rời buôn làng Ma Lép (nay là buôn Thống Nhất, xã Suối Trai, huyện Sơn Hòa) lên đường nhập ngũ. Đơn vị Pháo binh thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 120 của ông đóng quân tại huyện
Phát huy truyền thống cách mạng của một gia đình có bốn người thân là liệt sĩ, nung nấu ý chí căm thù, lòng yêu nước quên thân và lời dạy Bác Hồ, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi trận đánh, Ma Vin đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hòa bình lập lại, năm 1980 người con Ê Đê anh dũng một thời rời quân ngũ về lại buôn làng xây dựng quê hương theo lời căn dặn năm xưa của Bác. Ma Vin kể lại: “Thời bấy giờ bà con đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao còn nghèo và lạc hậu, trình độ dân trí thấp, nạn mê tín dị đoan, tục lệ ma chay khá phổ biến. Với cương vị cấp uỷ chi bộ, tôi tổ chức họp dân tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn bà con cách làm ăn đã học được ở nhiều địa phương nơi đóng quân, như cách làm lúa cho năng suất cao, chăn nuôi bò đàn, không nghe theo lời kẻ xấu kích động, bài trừ nạn mê tín dị đoan và nói để bà con hiểu, tin tưởng tuyệt đối chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số”. Với phương châm “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, Ma Vin cùng gia đình, dòng họ không ngại khó, ngại khổ bắt tay vào khai hoang trồng 10 ha lúa rẫy, gầy dựng thả nuôi hơn 100 con bò và động viên con cháu cố gắng học lấy cái chữ để mai này thoát cái nghèo. Nhờ vậy mà sáu người con của ông hiện nay đều có gia đình và có cuộc sống ổn định. Từ tấm gương lao động sản xuất của gia đình Ma Vin, phong trào hăng hái tham gia lao động sản xuất của bà con nổi lên trông thấy. Nhà xây mái ngói chiếm tỉ lệ hơn 80%, 100% hộ có phương tiện nghe nhìn và xe gắn máy, nhiều hộ còn mua máy cày, ô tô phục vụ cày cấy và vận chuyển nông sản. Kỷ niệm lớn nhất đối với Ma Vin, ngoài lời căn dặn của Bác Hồ còn có một đôi dép cao su được cấp phát cho bộ đội từ thập niên 1960 mà ông xem như là một kỷ vật cùng đồng hành trong suốt cuộc hành trình băng rừng, xẻ núi làm cách mạng cho đến tận hôm nay.
GHI LẠI LỜI DẠY CỦA BÁC ĐỂ “TRUYỀN LỬA” CHO CON CHÁU
A Lê Y Đứp, dân tộc Ê Đê, 74 tuổi đời, 42 tuổi Đảng (ở buôn Bầu, xã Ea Trol, huyện Sông Hinh) tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi, được ra Bắc học tập và vinh dự được gặp Bác Hồ. A Lê Y Đứp nhớ lại: “Một ngày cận Tết cổ truyền, Bác bất ngờ đến thăm trường nên ít người được biết. Nơi Bác vào thăm đầu tiên là nhà ăn. Bác mở xoong ra xem chế độ ăn uống của chúng tôi ra sao, tiếp đó Bác đi thăm trạm xá, nơi học tập, nơi ngủ của học sinh.... Bác ân cần hỏi thăm các cháu ăn cơm có đủ no không, quần áo, chăn màn có đủ ấm không? Các cháu có nhớ đồng bào miền
Bây giờ tuy đã già, sức đã yếu, ghi nhớ lời Bác dạy, ông A Lê Y Đứp luôn căn dặn con cháu phải gắng sức phấn đấu để trở thành người có ích cho xã hội. Sợ sau khi chết đi, con cháu không còn nghe ông kể về những lần được gặp Bác và những điều học từ Bác, ông đã tự viết ra một tập “Chuyện kể về Bác” dày 30 trang vở học sinh, thể hiện những tình cảm của mình khi được gặp Bác Hồ cùng những điều học được từ Người để cho con cháu biết, học tập và làm theo…
NHỚ LỜI BÁC DẶN, SỐNG PHẢI CÓ ĐẠO ĐỨC, THẬT THÀ
Ở cái tuổi 77, tuy mắt mờ, chân chậm, tay run nhưng trong tâm trí bà Hoàng Thị Xuân Vinh (dân tộc Cao Lan, hiện trú ở xã Bình Ngọc, TP Tuy Hòa) vẫn không bao giờ quên lần gặp Bác tại Hội nghị Mặt trận toàn quốc, tổ chức vào tháng 11/1954. Hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu giản dị, chân tình, luôn gần gũi, quan tâm đến mọi người và tin tưởng tuyệt đối vào đồng bào dân tộc đã khiến bà vô cùng xúc động. Bà Vinh kể lại: “Ngày ấy, tôi được chụp chung hình với Bác, được Bác tặng khăn mùi xoa, bộ váy áo dân tộc Cao Lan và một cuốn lịch. Với tôi, đó là niềm vinh dự vô cùng lớn”. Những năm tháng chiến tranh loạn lạc đã khiến bà Vinh không thể giữ lại được bên mình những báu vật vô giá ấy, nhưng những lời dạy của Người: “Các cô, các chú hãy về tuyên truyền với đồng bào để đồng bào hiểu rõ quyền của dân tộc chúng ta - không bao giờ chịu cảnh nô lệ mất nước. Nói chuyện cho mọi người nghe về đường lối phương châm của Đảng, nhờ đâu mà chúng ta có ngày hôm nay”. Ngày ấy đã trở thành “kim chỉ nam” hành động trong suốt cuộc đời bà.
Mang theo lời dạy của Bác, ở vị trí công tác nào, bà Vinh cũng tâm niệm: “Sống là làm việc cho Đảng, cho Nhà nước, cho dân”. Chính vì thế, từ những ngày còn trẻ, dù làm công tác tiếp tế bộ đội, du kích xã (sau đó khai thêm tuổi để được thoát ly tham gia cách mạng), cho đến khi được bầu làm Bí thư phụ nữ xã Bồng Am (huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang), rồi Bí thư Phụ nữ huyện Sơn Động hay chuyển sang công tác tại cửa hàng mậu dịch huyện Sơn Động (Ty Thương nghiệp tỉnh Bắc Giang), cửa hàng mậu dịch Phú Lâm (Ty Thương nghiệp tỉnh Phú Khánh)…, ở nhiệm vụ nào bà cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ, luôn được mọi người tin tưởng. Ghi nhận những đóng góp của bà, năm 1988, Hội Phụ nữ tỉnh Phú Khánh trao tặng bà danh hiệu “Người phụ nữ mới”. Những lời dặn dò của Bác về đạo làm người, về tình thương đồng loại, sống có thủy, có chung đã giúp bà vượt qua mọi hoàn cảnh gian khó trong cuộc sống, giúp bà sống tốt hơn để phục vụ cho Đảng, cho Cách mạng. Bà Vinh thổ lộ: Từ những lời dặn dò của Bác, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, tôi luôn dạy các con mình phải sống có đạo đức, thật thà. Sống phải biết thương yêu nhau, nếu dùng tình yêu thương để giải quyết mọi việc, thì việc nào cũng êm thấm, thành công.
P.NAM - A.NGỌC - N.DUNG