* Kỳ 1
* Kỳ 2
* Kỳ cuối
Những báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, những thư gửi cho Đảng cũng như những bài báo của Người đăng trên báo Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta) và báo Dân Chúng đã chỉ dẫn cho Đảng và nhân dân ta hướng đúng vào việc phát triển lực lượng cách mạng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và chống thảm họa phát xít đang lan rộng trên thế giới. Trước khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết một loạt bài đăng trên báo xuất bản ở Trung Quốc, chỉ rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, ca ngợi cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật của nhân dân Trung Quốc, Sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc trong chiến đấu chống phát xít Nhật và coi việc giúp đỡ đó là giúp đỡ cho chính mình.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra dự Hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ hòa bình (24/11/1964)
|
Năm 1941, trước những chuyển biến của tình hình thế giới, nhận rõ tình thế khẩn trương của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta. Người chủ trì hội nghị lần thứ 8 của TW Đảng(5-1941) và xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng nước ta lúc này. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, phải tập họp lực lượng quần chúng đông đảo, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính là phát xít Nhật-Pháp, thành lập Mặt trận Việt Minh, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông Dương; tiến tới thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, xúc tiến thành lập và phát triển lực lượng vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa; đồng thời giúp đỡ cách mạng Miên, Lào.v.v.
Ngay sau khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kính cáo đồng bào, kêu gọi 20 triệu con Lạc cháu Hồng hãy nêu cao truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết toàn dân đánh đuổi Pháp - Nhật, Người chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” “giành tự do dộc lập”(SĐD, trang 198). Có thể nói tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong kính cáo đồng bào cũng như trong các văn kiện của Hội nghị lần thứ 8 TW Đảng là sự tiếp nối và phát triển cao của tư tưởng độc lập tự do và đại đoàn kết toàn dân của Người được nêu lên trong các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách Mệnh (1927) và các văn kiện chính trị của Hội nghị thành lập Đảng (2-1930). Đây là một sự phát triển sáng tạo về tư tưởng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong điều kiện mới của thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết một loạt tác phẩm như Chiến thuật du kích, Lịch sử nước ta (1945: Việt Nam độc lập), Mười chính sách của Việt Minh và nhiều bài trên báo Việt Nam độc lập, đã cụ thể hóa Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 của TW nhằm đẩy mạnh việc giáo dục mạnh mẽ tinh thần yêu nước bất khuất, đoàn kết các giới đồng bào trong Mặt trận Việt Minh, hướng dẫn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, góp phần tạo ra một cao trào cứu nước mạnh mẽ, đón thời cơ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc.
Thời gian này, tác phẩm”Nhật ký trong tù” của Người đã ra đời trong hoàn cảnh chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trái phép khi Người đi công tác sang Trung Quốc. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, đồng thời là một tác phẩm văn học lớn thể hiện tư tưởng, tình cảm của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, có tác dụng sâu sắc đối với nhiều thế hệ người Việt Nam.
Bên cạnh tập “Nhật ký trong tù”, tập 3 còn nhiều tác phẩm thơ ca khác, có những đóng góp về tư tưởng và nghệ thuật, trở thành một bộ phận không thể thiếu của kho tàng văn học cách mạng nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước lúc cuộc Chiến tranh Thế giới đang bước sang giai đoạn cuối cùng với những thắng lợi quyết định của Liên Xô. Các văn kiện của Người ở thời gian này đều tập trung vào phát triển lực lượng chính trị, quân sự tạo lực lượng đón thời cơ và góp phần thúc đẩy thời cơ mau chín mùi. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã nêu lên những quan điểm cơ bản về kháng chiến toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về quan hệ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, về nguyên tắc tác chiến,.v.v.
(Còn nữa)