Đối với lĩnh vực văn hóa, Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra tư tưởng chỉ đạo hết sức quan trọng là: “Đổi mới nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước về văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn định, phù hợp, đáp ứng nhu cầu mới của sự phát triển văn hóa thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế". Tư tưởng này tạo cơ sở giúp chúng ta giải quyết được ít nhất ba điểm mấu chốt và cơ bản sau:
Một là, tránh được sự lạc hậu và tụt hậu cho cơ quan quản lý đối với hoạt động văn hóa, vốn là một bộ phận trọng yếu trong lĩnh vực đời sống tinh thần rất nhạy cảm, năng động và không ngừng phát triển.
Hai là, giữ gìn và phát huy được mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt
Ba là, thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Về nội dung thứ nhất, chúng ta biết rằng, phương thức quan trọng quản lý các hoạt động văn hóa là hệ thống văn bản luật và hệ thống cơ chế, chính sách. Các hoạt động văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng và biến đổi theo nhu cầu đời sống văn hóa xã hội, do đó thường hình thành xu hướng "vượt" khỏi tầm quản lý của các cơ quan chức năng. Nắm bắt được đặc điểm này, trong những năm qua, chúng ta tăng cường bám sát thực tiễn, hướng mọi hoạt động về cơ sở, đổi mới và từng bước hoàn thiện phương thức quản lý văn hóa. Chính phủ đã phê duyệt các đề án có tính chiến lược, như Đề án chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010; Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thông tin cơ sở và Quy hoạch phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa, thông tin đến năm 2010. Đó là những bước đi đón đầu của công tác quản lý hoạt động văn hóa và đời sống văn hóa xã hội của đất nước.
Về nội dung thứ hai, trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế thế giới, mở rộng giao lưu văn hóa hiện nay, phải xây dựng được nền văn hóa Việt
Nguyên nhân bên trong cũng không phải là ít. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, thói quen làm ăn và sinh hoạt của nền sản xuất nhỏ ăn sâu trong con người. Có thể thấy rõ như tác phong làm việc chậm chạp, độ liên kết lỏng lẻo; mặt bằng dân trí chưa cao; tính gia trưởng và đầu óc địa vị, cục bộ còn rơi rớt trong không ít cá nhân, đơn vị, địa phương... Những điều đó ảnh hưởng nhiều đến mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Về nội dung thứ ba, để thích hợp sự phát triển của thời kỳ mới, đòi hỏi chủ thể quản lý phải đổi mới nội dung và phương thức quản lý cho phù hợp. Điều này bước đầu chúng ta đã làm. Cũng cần phải nói tới một đặc điểm nữa là các hoạt động văn hóa thường phát triển từ tự phát lên có tổ chức. Nếu hoạt động tự phát thì sự phát triển sẽ rất mờ nhạt và dễ bị lợi dụng, lạm dụng, nhưng khi được tổ chức thì sẽ đem lại hiệu quả to lớn gấp nhiều lần. Mặt khác, việc tổ chức nếu theo một khuôn mẫu nhất định sẽ làm cho hoạt động văn hóa đó diễn ra đều đều theo từng chu kỳ, đơn điệu và tẻ nhạt. Như thế cần phải đổi mới cách thức tổ chức, cũng chính là tạo thêm sức sống cho hoạt động văn hóa. Cùng với việc hình thành hệ thống văn bản luật mang tính ổn định, cần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách nhằm xử lý linh hoạt các vấn đề phát sinh mà văn bản luật không thể điều chỉnh một cách chi tiết.
Nhưng, cái mà chúng ta còn bị hạn chế là tư tưởng do dự, ngần ngại đổi mới về nội dung và phương thức quản lý văn hóa, vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và công chức nhà nước. Vì thế, quan trọng là việc nhận thức rõ và đề cao trách nhiệm, xác định quyết tâm sẵn sàng đổi mới của đội ngũ cán bộ, đảng viên và công chức nhà nước.
LÊ TIẾN DŨNG