Hồi tưởng lại chặng đường qua 60 năm từ cuộc kháng chiến toàn quốc, tên tuổi và từng bước thăng trầm đều có những ký ức đáng nhớ và kỷ niệm khó quên.
Qua cuộc kháng chiến 9 năm đầy gian khổ và thật hào hùng, Tuy Hòa - thành phố của Phú Yên, khi đó chỉ là một thị xã nhỏ nằm án ngự bên này đèo Cả, đã không cho thực dân Pháp từ Khánh Hòa càn lấn qua. Những cuộc đổ bộ của địch từ biển lên, từ đất liền ra đều bị đánh lùi và thất bại. Tuy Hòa vẫn giữ danh xưng là vùng “tự do” nằm trong bốn tỉnh “tự do” của Liên khu 5: Nam, Ngãi, Bình, Phú cho đến tận Hiệp định Geneve năm 1954.
![]() |
Đại liên 20 ly đại đội Trợ chiến hạ chiếc máy bay Morane của Pháp tại đập Đồng
|
Hồi tưởng lại thời kỳ còn phôi phai, trứng nước của những 1940 – 1946 thì hình tượng tình “quân với dân như cá với nước” của đồng bào và quân đội nhân dân ta là trường tồn và sức mạnh phi thường. Sự hợp sức đồng tâm của dân và quân từng bước trong cuộc chiến tranh nhân dân thật kỳ vĩ. Vùng lên từ đơn vị nhỏ, với dao găm, mã tấu, thực thi triệt để mệnh lệnh “tiêu thổ kháng chiến” thì chỉ trong khoảnh khắc thời gian ngắn, những khu nhà ngói đồ sộ, những ngôi nhà tường vách kiên cố trong thị xã đã đục vách, khoan tường lập thành chiến lũy xuyên từ tuyến này với tuyến kia để hợp đồng tác chiến. Trên các cánh đồng lúa mới gặt xong đã loang loáng những thân tre vót nhọn chống quân nhảy dù. Con đường lớn từ thị xã đi ra Màng Màng, Mỹ Á, tận Hòa Đa, Chí Thạnh đã ngày đêm xẻ dọc xẻ ngang chữ I chữ T nhằm không cho xe cơ giới của giặc tiến quân. Từ xóm này rẽ đường sang xóm khác đã nhanh chóng hình thành “làng chiến đấu”, liên hoàn dọc theo các giao thông hào. Chỉ có người dân trong xóm mới tường tận đường đi lối thoát. Đâu đâu cũng có tai mắt của dân giám sát và cảnh giác tại mỗi trạm gác đầu xóm, đầu làng. Cùng một lúc củng cố lực lượng vũ trang chiến đấu, các đoàn thể quần chúng, thanh niên, phụ nữ. Mẹ chị chiến sỹ được tăng cường và phát triển mạnh mẽ. Tất cả các hội và đoàn thể tích cực hoạt động. Các phong trào “Diệt giặc ngoại xâm, diệt giặc đói, diệt giặc dốt” phát triển rầm rộ. Đêm đêm, anh Bộ đội Cụ Hồ đến lớp dạy bình dân học vụ. Các vị bô lão, các chị các mẹ chiến sỹ cùngnhau vận động cho “hủ gạo nuôi quân”, “chiếc khăn tay kỷ niệm”… Ngoài ra, còn phát động phong trào “Không dùng hàng ngoại hóa” tạo thành một sức mạnh tổng hợp, tổng hóa làm nên chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh năm1975, thống nhất nước nhà.
Mỗi lần trở lại thăm Tuy Hòa, là người lính trẻ của thời ấy, một đội viên trẻ nhất của đội súng máy 20 ly và 12 ky 7 gác trên đỉnh núi Nhạn Tháp với nhiệm vụ khi tàu bay địch xuất hiện thì gõ “tà vẹt” báo động, khi tàu thủy địch xuất hiện giữa biển khơi thì kéo “bồ”* để làm dấu hiệu cho bà con đánh cá ngoài khơi dạt vào nơi đánh giặc. Lòng tôi tràn ngập nhiều ấn tượng về hào khí và nghĩa tình sâu nặng giữa đồng bào và quân đội trên đất Tuy Hòa, Phú Yên một thời gắn bó bảo vệ đất nước. Chắc hẳn bà con Tuy Hòa không bao giờ quên những người con thân yêu của mình thời ấy, tuy chưa gặp lại hay có người đã ra đi vì hy sinh, vì giá yếu như các đồng chí Cao Văn Khánh – nguyên Đại đoàn trưởng Đại đoàn 27, Phan Hàm – Trung đoàn trưởng, Lư Giang – nguyên Truung đoàn trưởng Trung đoàn 803, Nguyễn Bân – nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn I – Độc Lập và Hà Vi Tùng – Tiểu đoàn “Lá mít” 365 đã từng làm cho quân giặc kinh hồn khiếp vía. Tình cảm quân dân ruột rà, gắn bó ấy mãi mãi thấm đượm và khắc sâu trong lòng mỗi người chúng ta, cho con cháu chúng ta khi hồi tưởng lại những ngày đầu Tuy Hòa bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc cùng với toàn dân làm nên chiến thắng vẻ vang trong trang sử hồng của dân tộc.
* “Bồ”: Cái bồ đan bằng tre cật lợp lá buông treo cao để báo hiệu cho ngư dân ngoài biển xa
MINH LƯƠNG