Chuyến đi mở đường vào miền Nam

Chuyến đi mở đường vào miền Nam

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 4 lần tôi tháp tùng với thủ trưởng đi Hà Nội. Có lần đi từ cơ quan Liên khu ủy 5 ra đến Hà Nội đi mất một tháng 20 ngày, nhưng cũng có lúc đi ô tô chỉ 10 ngày.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 4 lần tôi tháp tùng với thủ trưởng đi Hà Nội. Có lần đi từ cơ quan Liên khu ủy 5 ra đến Hà Nội đi mất một tháng 20 ngày, nhưng cũng có lúc đi ô tô chỉ 10 ngày. Nhưng có một chuyến đi tôi không bao giờ quên vì đó là chuyến đi bộ dài ngày nhất, đi bộ gần 3 tháng trời từ Trung Lào đến Hạ Lào. Đó là chuyến đi mở đường vào miền Nam của đồng chí Trần Lương, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa II, Bí thư Liên khu ủy 5 đầu năm 1961.

bo-doi-phuyen.gif

Bộ đội Phú Yên trên đường ra chiến dịch Xuân 1975 - Ảnh: TRẦN KHẢ QUANG

Sau Hội nghị Trung ương Đảng khóa II lần thứ 15 năm 1959, việc mở đường vào miền Nam vô cùng bức thiết. Thời điểm lúc bây giờ đường dây Nam - Bắc chỉ có một con đường duy nhất là đường đi qua làng Ho chuyên trách việc đưa cán bộ từ miền Nam ra miền Bắc và ngược lại. Chúng tôi thường gọi đây là sợi chỉ đỏ nối liền bờ Nam ra bờ Bắc sông Bến Hải. Các lớp cán bộ đi B từ các năm 1959 đến năm 1960 đều đi qua đường này. Anh Nguyễn Phụng Minh, Khu ủy viên Khu 5 khi còn sống thường nói con đường này là con đường đặc biệt, là con đường nhớ đời của cán bộ khi đã đi qua… Nói là con đường nhưng thật ra không có đường. Từ miền Bắc đi vào thì phải nửa ngày đường leo núi ở bờ Bắc sông Bến Hải, đi đến dãy núi cao nhất. Từ đó không được đi dép cao su và đi cả chân cả tay xuyên rừng, trụt xuống một con suối lớn. Đôi dép cao su luồn vào thắt lưng cho chắc vì đi bộ đôi dép quý như vàng và tuyệt đối không được để rơi vãi một cái gì, nhất là mấy hạt gạo để địch biết có dấu người đi qua lại. Thường là 12 giờ trưa mới bắt đầu xuống đầu nguồn suối và lội suối cho đến 5 giờ chiều mới gần giáp quốc lộ 9 Đông Hà đi Sa-va-na-khet của Lào. Nghỉ ở đó cho đến 9 giờ tối thì bắt đầu tiếp tục theo suối đi qua cống dưới đường 9 và cũng tiếp tục theo suối đi ra bờ Bắc sông Bến Hải. Ở đó có một chiếc thuyền độc mộc của dân làng Ho chờ sẵn. Nếu thuận lợi thì 9 giờ qua sông Bến Hải, nhưng thường là 10 giờ tối thuyền mới từ Bắc sông Bến Hải đi qua bờ Nam sông Bến Hải. Mỗi đêm thuyền có thể đi qua lại 10 chuyến, mỗi chuyến đi được 3 người, mức cao mỗi đêm đi được 30 người. Qua sông Bến Hải vẫn phải tiếp tục đi chân không và leo núi đến 3 giờ sáng mới treo võng ngủ. Cơ sở làng Ho phải dậy sớm kiểm tra lại đường, xóa bỏ các dấu vết đề phòng địch phát hiện. Tôi trao đổi với đồng chí Phan Du, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Vĩnh Linh nên tính cách làm sao tăng được số lượng đi B có thể gấp đôi, nhưng đồng chí nói địch kiểm soát và thường lùng quét, rất khó có thể tăng lên.

Đồng thời, Đoàn 559 triển khai chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu cũng mở một đường xuyên núi giáp ranh biên giới Việt Nam và Lào, dùng lực lượng vũ trang chuyển tải vũ khí vào Liên khu 5, vừa đánh địch càn quét vừa gùi thồ, nhưng sau hơn một năm triển khai chỉ đưa được vào trạm tiếp nhận vũ khí của Liên khu 5 ở A Xo, A Lưới 70 tấn vũ khí.

Đồng chí Trần Lương (tức Trần Nam Trung) mời đồng chí Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân khu 4 bàn việc khắc phục các khó khăn của việc mở đường vào miền Nam, nhất trí báo cáo Bộ Chính trị xin Bộ chính trị gặp các đồng chí bạn Lào và xin mở đường qua đất Lào. Bộ Chính trị nhất trí đề nghị của các đồng chí Liên khu 5 và Bộ Tổng tham mưu, cử đồng chí Trần Lương đi gặp và làm việc với anh Bảy (tên thường gọi đồng chí Kay-xôn Phôm-vi-hãm - Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào). Anh Bảy nhất trí đề nghị của Liên khu 5 và Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân.

Vùng căn cứ cách mạng của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào rất vững mạnh nhưng chưa có sự nối liền giữa Trung Lào với Hạ Lào, anh Bảy yêu cầu ta giúp đỡ bạn xây dựng một số mặt ở vùng căn cứ của bạn. Cái khó là có 2 đồn địch trên đường 9 ở Mường Phìn và Sê-pôn, hai đồn cách nhau 60km. Đồng chí Nguyễn Đôn quyết định điều một trung đoàn của quân khu 4 đánh đồn Sê-pôn và ra lệnh cho tiểu đoàn 19, tiểu đoàn con cưng của Quân khu 5 cũ đánh đồn Mường Phìn. Tình hình ở Lào lúc đó có lực lượng trung lập do Kông-le cầm đầu nổi dậy. Các đồng chí lãnh đạo của ta quyết định lực lượng đi qua đất bạn đều mặc quân phục của lính Kông-le. Anh Nguyễn Đôn mời cựu chính ủy Quân khu 5 Trần Lương làm công tác tư tưởng cho tiểu đoàn 19.

Và cuộc mở đường vào miền Nam đi qua đất Lào được bắt đầu do đồng chí Trần Lương dẫn đầu. Chúng tôi ăn mặc theo trang phục lính Kông-le, xe ô tô được bịt kín từ Hà Nội vào đến Đô Lương tỉnh Nghệ An rồi đi lên phía tây theo đường huyện Kỳ Sơn qua tỉnh Khăm Muộn của Lào. Không có giao liên dẫn đường, nhưng rất quý là đoàn đồng chí Trần Lương có giấy giới thiệu của anh Bảy. Dựa vào bản đồ, chúng tôi nhờ dân Lào dẫn đường từ buôn này đến buôn khác theo hướng tiến vào Nam . Bộ Tổng tham mưu sử dụng máy bay Liên Xô cũ tiếp tế hậu cần cho đoàn đồng chí Trần Lương, đoàn đồng chí Nguyễn Đôn và tiểu đoàn 19 trên đường từ Khăm Muộn vào đến đường 9. Đoàn đồng chí Trần Lương đi đầu còn có nhiệm vụ làm dấu đường cho đoàn đồng chí Nguyễn Đôn và lực lượng vũ trang cùng đi với đồng chí Nguyễn Đôn. Do chỉ dựa dân dẫn đường, nên cuộc hành quân hơi chậm. Sau hơn 1 tháng chúng tôi mới đến đường số 9.

Tiểu đoàn 19 mặc quần áo lính Kông-le tiến hành vây đồn Mường Phìn. Lính của Chính phủ Lào bị ta bao vây hoảng sợ bỏ quần áo lính dựa vào gia đình chạy trốn vào rừng. Do đó khi quân ta tiến vào đánh chiếm đồn thì chỉ còn là một cái đồn không có lính. Đồng chí Trần Lương gặp mấy đồng chí bạn gợi ý ta nên dùng loa gọi chúng về hàng, nếu ngoan cố bộ đội ta sẽ đánh tiêu diệt. Bọn lính Lào lần lượt ra hàng. Đồng thời, một trung đoàn của ta do đồng chí Hạp làm Trung đoàn trưởng đánh diệt và chiếm đồn Sê-pôn. Chúng tôi dùng xe ô tô địch chạy từ Mường Phìn đến Sê-pôn và chạy từ Mường Phìn lên Mường Pha-lan quê hương của Kông-le. Theo chỉ thị của đồng chí Trần Lương, tất cả chiến lợi phẩm đều giao cho các đồng chí bạn quản lý, ta không được đụng đến. Rất nhiều mùng tuyn và bi đông Mỹ, các đồng chí bạn yêu cầu ta nhận mỗi người 1 cái nhưng hơn 10 đồng chí của đoàn tôi đến Sê-pôn chỉ nhận mỗi người 1 cái bi đông Mỹ để dùng trong cuộc tiếp tục hành quân về Liên khu 5. Để bảo đảm sức khỏe cho đồng chí Trần Lương, chúng tôi xin bạn con ngựa của tên đồn trưởng Mường Phìn để anh dùng trên đường về lại Liên khu 5. Con ngựa này rất khôn, không chịu phục tùng những người chưa biết cỡi ngựa và rất thích ăn xôi.

Nhân dân Lào đón đồng chí Trần Lương và đoàn chúng tôi hết sức nhiệt tình, thể hiện rất sâu đậm tình đoàn kết đặc biệt Lào - Việt. Lúc đầu tôi cứ nghĩ cả tháng ăn xôi thì làm sao chịu được, nhưng dần dần chúng tôi ăn quen và thấy cũng ngon, nhất là mấy hôm có thức ăn ngon. Đồng chí Khịa người quê Bình Thuận làm quản trị cho đoàn luôn mua được gà và mua toàn gà trống, vì mỗi lần vào làng đồng chí đều nói ò ó o nên dân làng tưởng bộ đội ta thích mua gà trống. Phát hiện việc này tôi dặn đồng chí Khịa, lần sau nên nói tục tục - tục tác… thì đúng là mua được nhiều gà mái. Đồng chí Khịa hy sinh sau khi về đến Liên khu 5, nhưng cái tính vui nhộn và lạc quan cách mạng của đồng chí tôi không thể nào quên khi nhớ lại chuyến đi này.

Ở Mường Phìn hơn 1 tuần, đoàn đồng chí Trần Lương được các đồng chí bạn cho thức ăn hộp: mắm ruốc, cá hộp, nước mắm Đài Loan…

Từ Mường Phìn, chúng tôi theo đường ô tô địch bỏ lâu ngày vào cầu Xu-pha-nu-vông (cầu này do đồng chí Xu-pha-nu-vông xây).

Vào đến Đất chưng Hạ Lào, đoàn đồng chí Trần Lương cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình thắm tình đồng chí của nhân dân và cán bộ Lào, tổ chức vượt sông về huyện 40 của tỉnh Kon Tum.

Nam nữ thanh niên huyện 40 rất ham học chữ quốc ngữ, nhưng thiếu giấy để học. Chúng tôi xé vở cho giấy trắng cho thanh niên học.

Một số thanh niên người dân tộc Dẻ đã đi bộ đội ta hỏi đồng chí Trần Trọng Tân đi phép chỉ một ngày về gặp vợ mà có con, dân làng không chấp nhận và cho đó là con của ma, đồng chí kiên trì giải thích làm nhiều thanh niên rất mừng.

Tôi tranh thủ đem tiểu thuyết Ruồi Trâu tôi mua ở Hà Nội trước khi đi ra đọc. Có lẽ đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi đọc, càng đọc càng thấy hay và luôn như được tăng thêm nghị lực cách mạng. Thấy tôi đốt ngo đọc tiểu thuyết, đồng chí Trần Lương cũng đốt ngo đọc tiểu thuyết Ruồi Trâu.

Chuyến đi mở đường vào miền Nam đầu năm 1961 qua đất Lào đã đi vào lịch sử như một cái mốc quan trọng về mở đường từ miền Bắc vào miền Nam, tạo cho ta mở rộng đường dây Bắc - Nam, không chỉ đường bộ đi lại dễ dàng hơn nhiều, mà ta mở được một tuyến đường ô tô đi từ miền Bắc vào miền Nam, tiếp tế vũ khí cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Tuy địch phát hiện và đánh phá ác liệt, nhưng đường vận tải ô tô tiếp tục được củng cố và mở rộng cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Do quen thạo đường Trường Sơn, được Khu ủy tin tưởng, tôi 2 lần đi Hà Nội nhận hàng Trung ương chi viện cho Khu 5. Một lần đi nhận 6 chiếc xe “Oát” của Trung ương cho Khu 5. Một lần đi nhận 6 thùng tiền ngụy và đôla. Nhận 6 xe “Oát” và tiền TW cho Khu 5, đồng chí Trần Kiên, Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy 5, Trưởng ban Kinh tài Khu ủy nói: “Cách làm của mày tao nghe hơi mạo hiểm và rất may đều an toàn”.

HUỲNH TRÚC

Nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Phú Yên

Từ khóa:

Ý kiến của bạn