Ban Kinh tế - Ngân sách (KT-NS) HĐND tỉnh vừa giám sát về tình hình quản lý, khai thác và sử dụng vật liệu xây dựng (VLXD) thông thường trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011-2018. Kết quả giám sát cho thấy, công tác quản lý quy hoạch, hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản VLXD thông thường đã cơ bản tuân thủ các quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến 2030. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định cần tháo gỡ. Báo Phú Yên đã trao đổi với Phó Trưởng Ban KT-NS HĐND tỉnh Lê Xuân Hà xung quanh vấn đề này.
* Qua kiểm tra, giám sát, ông có thể cho biết tình hình và kết quả quản lý, khai thác, sử dụng khoáng sản làm VLXD thông thường hiện nay trên địa bàn tỉnh?
- Thời gian qua, công nghiệp khai khoáng đã làm tăng tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tạo ra nguồn sản phẩm đáp ứng nhu cầu VLXD phục vụ thi công các công trình, dự án và đóng góp đáng kể vào thu ngân sách địa phương; giải quyết việc làm cho nhiều lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh. Đồng thời tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, phúc lợi xã hội tại các địa phương chịu sự tác động của hoạt động khoáng sản.
Giai đoạn 2011-2018, các cơ quan chuyên môn có liên quan đã phối hợp thẩm định, tham mưu UBND tỉnh cấp 101 giấy phép khai thác khoáng sản làm VLXD thông thường (kể cả gia hạn). Đến thời điểm giám sát, toàn tỉnh có 39 doanh nghiệp đang hoạt động khai thác khoáng sản VLXD thông thường với 44 mỏ. Ngoài các đoàn kiểm tra của Trung ương, giám sát của HĐND tỉnh, Sở TN-MT thường xuyên chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức nhiều đợt kiểm tra, thanh tra, nhất là kiểm tra đột xuất hành vi khai thác khoáng sản không phép, trái phép...
Phó Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh Lê Xuân Hà (đứng) chủ trì cuộc họp góp ý kết quả giám sát về tình hình quản lý, khai thác và sử dụng vật liệu xây dựng thông thường giai đoạn 2011-2018 - Ảnh: THÙY THẢO |
* Có những hạn chế, vướng mắc nào trong quá trình quản lý, khai thác và sử dụng VLXD thông thường thời gian qua, thưa ông?
- Vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục, chấn chỉnh. Cụ thể, chất lượng quy hoạch còn hạn chế nên phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần; chưa tổ chức bàn giao mốc và hồ sơ quy hoạch khoáng sản cho các địa phương hoặc bàn giao cho UBND các xã quản lý mốc để làm cơ sở quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản; việc quản lý vị trí, xác định lại trữ lượng các mỏ cát, sỏi lòng sông, suối theo biến động hàng năm chưa kịp thời, chưa sát với thực tế; tình trạng khai thác cát trái phép, không phép, sai vị trí được cấp phép vẫn còn diễn ra; nợ, chậm nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, tiền thuê đất, phí bảo vệ môi trường, ký quỹ phục hồi môi trường và đóng cửa mỏ khi hết thời hạn cấp phép diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý dứt điểm. Trong tổng số 62 dự án phải ký quỹ được phê duyệt có 11 dự án chưa ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường; một số mỏ cấp phép không đảm bảo khoảng cách an toàn từ mỏ đến nhà dân sinh sống...
Bên cạnh đó, nhiều tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định, đến thời điểm giám sát số tiền còn nợ chưa nộp trên 12 tỉ đồng. Qua khảo sát thực tế, đa số mỏ khai thác cát không đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến sâu; đa số doanh nghiệp khai thác và bán khoáng sản cho cá nhân, hộ gia đình không xuất hóa đơn tài chính nên doanh nghiệp không kê khai đúng sản lượng khai thác, gây thất thu thuế...
* Vậy ban đã có những đề xuất kiến nghị gì để công tác này ngày càng tốt hơn?
- Căn cứ kết quả giám sát, Ban KT-NS đã có những kiến nghị với bộ, ngành, Trung ương, UBND tỉnh và các sở, ngành, địa phương về một số vấn đề. Trong đó đề nghị Bộ TN-MT hỗ trợ kinh phí để tăng cường mua sắm trang thiết bị, bổ sung kinh phí cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về khoáng sản. Việc khai thác cát, sỏi lòng sông, do tính chất khai thác đơn giản, phụ thuộc nhiều vào đặc điểm tình hình mưa lũ hàng năm; sau mùa mưa lũ, các khu vực này có thể được bồi tụ hoặc bị xói lở tùy vào mức độ dòng chảy lũ hàng năm, nên thiết kế khai thác mỏ cũng như tiêu chuẩn giám đốc điều hành mỏ đối với các khu vực này cần có quy định riêng để phù hợp với thực tế.
UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế, nhất là khâu cấp phép, quản lý hoạt động khai thác; nghiên cứu xây dựng, ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản và giảm thiểu tác động đến môi trường; rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản làm VLXD thông thường phù hợp với thực tế trên cơ sở quy hoạch thủy lợi, quy hoạch sử dụng đất đã được Chính phủ phê duyệt. Đối với các mỏ hết hạn ghi trong giấy phép khai thác, trên cơ sở rà soát quy hoạch khẩn trương thẩm định, phê duyệt đề án đóng cửa mỏ... Đồng thời chỉ đạo thực hiện nâng cao hiệu quả đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo quy định nhằm đảm bảo công khai, minh bạch; có giải pháp hạn chế tối đa việc dùng cát để san lắp nền; chấm dứt việc đổ xà bần, phế thải xây dựng, cắt sông, cắt bờ để làm đường vận chuyển; chỉ đạo ngành Thuế kiểm tra, truy thu các loại thuế, phí đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản kê khai không đúng sản lượng khai thác thực tế; có văn bản gửi các bộ ngành Trung ương điều chỉnh việc phân ngành quản lý khoáng sản...
Ngoài ra, ban cũng đã có những kiến nghị cụ thể đối với các sở: TN-MT, Xây dựng, GTVT, Công an tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh.
* Xin cảm ơn ông!
THÙY THẢO (thực hiện)