Từ khi lờ mờ nhận ra mình yêu thích thi ca, tôi đã ngưỡng vọng nhà thơ Vũ Quần Phương bởi hai bài Áo đỏ và Đợi. Cũng vì ngưỡng vọng ông mà tôi đã rón rén gửi những bài thơ đầu tiên của mình đến báo Người Hà Nội, nơi ông làm Tổng Biên tập một thời gian dài.
![]() |
Nhà thơ Vũ Quần Phương
|
Về nhà, lấy bức chân dung nhà thơ Vũ Quần Phương vừa chớp được vội vàng gắn kết với Áo đỏ và Đợi, tôi cảm thấy hài lòng. Quả nhiên người nào thơ ấy. Áo đỏ em đi giữa phố đông/ Cây xanh như cũng ánh lên hồng/ Em đi thắp lửa trong bao mắt/ Anh đứng thành tro em biết không và Anh đứng trên cầu đợi em/ Đứng một ngày đất lạ thành quen/ Đứng một đời em quen thành lạ/ Nước chảy… kìa em, anh đợi em đều hay một cách chỉnh tề. Không những cảm xúc thi ca được huy động đến, mà trật tự chữ nghĩa cũng được huy động đến. Áo đỏ và Đợi như hai cô gái đẹp, đẹp nền nã và lịch sự, đẹp quý phái và tròn trịa. Cái đẹp gần như để người ta hâm mộ, chứ không phải để người ta lao vào đắm đuối si mê!
Trên kệ sách của tôi có nhiều thơ Vũ Quần Phương, cả in chung và in riêng. Tôi thường mang thơ ông ra đọc, mỗi lần đọc tôi luôn chuẩn bị một tâm trạng không bị chi phối bằng cách cố gạt ra khỏi tâm trí những giải thưởng của ông cũng như những tác phẩm bình thơ của ông, để được đối diện với từng câu, từng dòng khách quan nhất. Nhiều lần cầm thơ ông lên và… đặt thơ ông xuống, tôi nghĩ ngợi mông lung. Có lẽ, ông không phải là người bị động chờ thơ đến với mình mà chủ động đi tìm thơ. Tất nhiên, suy tư của tôi không phải hồ đồ dựa vào số lượng bài thơ, mà tin cậy dựa vào từng bài thơ. Vũ Quần Phương hình như lúc nào cũng tập hợp quanh mình một đội quân chữ, và ông làm tổng chỉ huy. Đội quân chữ của Vũ Quần Phương không phải ngẫu nhiên nhặt nhạnh được đâu, mà ông tuyển chọn kỹ lưỡng đấy. Đứng trong đội quân chữ của Vũ Quần Phương hầu hết là những chữ hội đủ phẩm chất để viết nên những câu không ai chê dở được. Chính vì sự sát hạch ghê gớm, đội quân chữ của Vũ Quần Phương đều tinh nhuệ đến độ trở nên quen thuộc với độc giả và với chính tác giả! Ông biết rất rõ sự thật này và thừa nhận sự thật này tồn tại: Chuyện buồn chuyện vui phập phồng quên nhớ/ Thơ viết trăm bài vẫn chữ năm xưa.
Trong thơ Vũ Quần Phương thường nhắc nhiều đến khái niệm thời gian. Không những trong tập Vết thời gian, mà những tập Quên chữ…Quên câu hay Giấy mênh mông trắng cũng trở qua trở lại cơn cớ “thời gian”. Khi thì đau đáu Người giữ gìn ký ức/ Quên thời gian đang trôi, khi thì xa xôi Em đang gọt trái lê mùa hạ/ Vỏ lê như thời gian đang rơi, khi thì bồn chồn Một nỗi gì/ Buồn hơn cả nỗi buồn, xa hơn xa gốc rễ/ Thoảng như hơi thở nhẹ/ Làm mình ngồi lặng lẽ/ Thời gian. Sự ám ảnh ấy được ông định nghĩa bằng bài Thời gian chân thành: Không nắm được bàn tay/ Thì hằn lên nét mặt/ Thân người về xứ khác/ Tình người còn đâu đây/ Kìa tiếng chim cu gáy/ Xa xăm mà thơ ngây. Vị trí Vũ Quần Phương trong làng thơ Việt
Cái tài của Vũ Quần Phương là có thể dùng những chi tiết rất cũ, hình ảnh rất cũ để tạo thành những câu thơ mới. Do vậy, không cần biết tên riêng từng bài thơ, vẫn có thể hấp thụ xúc cảm thơ ông: Tình yêu biến anh thành hạt cát/ Gánh một miền sa mạc chờ em hay Một cây gạo ven bờ/ Đốt cả trời lẫn nước hoặc Vẽ buồn, vẽ nhớ, vẽ yêu/ Tương tư vẽ gió cho diều đứt dây. Ngay cả chuyện tình yêu tuyệt vọng, tưởng đã nói hết trong hai bài Áo đỏ và Đợi thì ông vẫn viết được bài Cầu và sông không thua kém gì: Cầu ở lại còn nước trôi đi/ Vẫn gần nhau mà luôn chia ly/ Dẫu có vậy nhưng còn được vậy/ Tôi là cầu, nhưng em là chi?. Nhà thơ Vũ Quần Phương quan niệm: Đừng ngại bụi bay, đừng sợ tiếng người/ Tiếng chát chúa bán mua, tiếng ngọt ngào tình tự/ Đời dám yêu thơ thì thơ đừng sợ/ Bút cũng như mầm chạm đất mới sinh sôi nhưng ông không phải dạng người quăng quật vào xã hội ba đào, ông không thể lang bạt kỳ hồ, ông không thể ngất ngưởng khóc cười để từ đời bật dậy thi ca. Một con người cẩn trọng như ông thì đã lường trước tỉ mỉ để tránh va vấp, tránh đụng chạm với mọi sự chẳng lành. Vậy thơ Vũ Quần Phương đến từ đâu? Xin thưa, đến từ chính cõi hồn của ông, từ thái độ trân trọng con người của ông. Ai đó có thể gọi bà điên hay con điên, nhưng ông gọi Cô điên bằng cái nhìn bao dung trời xanh đè xuống vai em trĩu nặng. Chỉ cách gọi “cô điên” đã ít nhiều phản ánh được ngôn ngữ lương thiện nhà thơ rồi! Ông không lao theo sấp ngửa nhân gian, nhưng nghiêng tai nghe Tiếng gọi cuộc đời để làm thơ: Hỡi ai tim đập bên trang giấy/ Có thấy lòng tôi run xuống câu. Mỗi người có một phương pháp tiếp cận thi ca, và không thể nói phương pháp nào hiệu quả hơn phương pháp nào.
Nhà thơ Vũ Quần Phương chọn phương pháp nhắm mắt lại nhìn vào tâm tưởng. Theo tôi, đấy là một phương pháp cực kỳ vất vả. Với một không gian chật hẹp từ “tâm” đến “tưởng”, nhà thơ phải luôn tự vấn, tự dằn vặt, tự phản biện bản thân. Vậy mà, Vũ Quần Phương đã làm được. Ông chợt trông Hoa trong nhà lao Buôn Ma Thuột bằng suy tư Hoa trắng rơi trên sân ngục lạnh/ Những mắt nhìn hoa giờ ở đâu?, ông mỗi bận Sáng nghe chim hót bằng trắc ẩn Ta nghe hót mà quên chim đang hót/ Thấy bao la mà quên một chiếc lồng/ Tiếng hót hay mà lòng chim tan nát/ Nỗi nhớ trời xanh, nỗi nhớ cánh đồng/ Chim kêu cứu mà lòng ta mơ mộng/ Chim tội tù mà ta cứ như không, và ông hàng ngày Soi gương cũng thảng thốt Năm tháng chẳng trôi đi, năm tháng đọng ở đuôi con mắt/ Ở nét cười, mái tóc/ Ở câu đùa nửa chừng im bặt. Không có điều kiện trải mình ra với đời mênh mông hiện thực, Vũ Quần Phương chấp nhận cho đời chảy vào mình bao la hư ảo, thoáng phút giây Ngã ba Đồng Lộc 1994 cũng đủ ông Nghe trĩu nặng những gì chưa trả được. Ta ngẩng đầu nhận nợ tháng năm xa.
Chắt chiu tâm - tưởng để có được những câu thơ tài hoa gương mặt dài như giọt lệ đang rơi, nhà thơ Vũ Quần Phương tỏ ra kỹ tính quá mức trong việc dùng chữ. Ông có một đội quân chữ đấy, nhưng ông toàn chọn những chữ đẹp đẽ. Trong bài Diều giấy của ông, tôi bắt gặp mấy câu Mắt em làm gió nâng diều bay/ Hồn em mở những chân trời lạ/ Em níu chân trời trong kẽ tay. Hai câu trước rất gợi, nhưng câu thứ ba lại líu quíu, vì ông sợ những chữ khác không cao sang bằng chữ “chân trời”, nên đặt hai “chân trời” cạnh nhau, mà quên cảnh giác “chân trời” này sẽ che khuất “chân trời” kia. Tôi vụng dại nghĩ, nếu thay chữ “chân trời” bằng một chữ ốm yếu hơn rất nhiều là chữ “buổi chiều” thì bức tranh thả diều sẽ bớt đơn điệu hơn. Ở đây, ông như một đạo diễn khó tính, không có niềm tin với diễn viên phụ, liên tục cho diễn viên chính xuất hiện trong ống kính, cảnh trước cũng diễn viên chính mà cảnh sau cũng diễn viên chính thì sao tránh khỏi sự tẻ nhạt trên màn bạc? Có lẽ do bản tính Vũ Quần Phương cẩn trọng thôi, chứ những “tiểu xảo” ấy đối với ông chỉ là cái búng ngón tay nhẹ nhàng. Ví dụ, ông dùng chữ “đuổi” khá đắc địa Vườn quê lổm ngổm nhà lầu/ Đuổi cây húng láng vào câu hát buồn. Câu lục bát này và cả bài thơ Làng Láng lưu luyến người đọc vì chữ “đuổi”, mới biết sức quyến rũ của diễn viên phụ cũng đáng gờm!
Nhờ sự nghĩ thường trực, nhà thơ Vũ Quần Phương rất giỏi trong chuyển biến câu thơ. Bài Thuyền Trương Chi đang trôi viết bằng thể lục bát Đã yêu cho lũ tràn đầy/ Đã thương cho đến hao gầy khúc sông/ Chống sào hát với biển Đông/ Biển không hết nước ta không hết nàng/ Mây trôi nước chảy mơ màng/ Con chim trúng đạn, yêu bàn tay cung. Với những câu trích dẫn trên, năm câu đầu thì ai cũng có thể làm được, nhưng câu thứ sáu mới chính là Vũ Quần Phương, riêng Vũ Quần Phương. Thừa nhận sự nghĩ của ông rất giỏi, nhưng tôi lại đặc biệt thú vị ở những bài thơ mà ông không kịp nghĩ. Đó là trường hợp Căn nhà xưa viết theo lối thơ văn xuôi. Có lẽ sự chuyển nhà hơi vội vàng khiến ông không kịp giục cái xao xác từ “tâm” đến “tưởng” rồi huy động đội quân chữ trung thành, ông đành chỉ viết bằng “tâm” những dòng run rẩy Tôi từ giã bao lần những chiếc áo mặc chật, những nỗi buồn cho tôi lớn lên. Nhưng lần này trước căn nhà cũ nát, trái tim tôi thành viên gạch trên tường.
Vậy đấy, thử một lần hưởng ứng thao thức “hỡi ai tim đập bên trang giấy” thì tôi đã thấy “lòng Vũ Quần Phương run xuống câu”!
LÊ THIẾU NHƠN