Lịch sử Phú Yên qua nguồn tư liệu tiền cổ

Lịch sử Phú Yên qua nguồn tư liệu tiền cổ

Tháng 7-2000 một số người tình cờ đã phát hiện được ở thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa một số lượng lớn tiền cổ bằng đồng. Toàn bộ số tiền phát hiện được có trọng lượng khoảng 300kg đựng trong 3 ché sành chôn sâu trong lòng đất. Đáng tiếc là phần lớn số tiền trên đã bị thất thoát, chính quyền địa phương chỉ thu giữ được 27kg sau đó giao lại cho Bảo tàng tỉnh lưu giữ và nghiên cứu. Phát hiện tiền cổ ở Đông Phước chỉ là sự mở đầu cho một loạt các phát hiện tiền cổ tiếp theo trong các năm 2000, 2001, 2002.

1. Tháng 7-2000 một số người tình cờ đã phát hiện được ở thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa một số lượng lớn tiền cổ bằng đồng. Toàn bộ số tiền phát hiện được có trọng lượng khoảng 300kg đựng trong 3 ché sành chôn sâu trong lòng đất. Đáng tiếc là phần lớn số tiền trên đã bị thất thoát, chính quyền địa phương chỉ thu giữ được 27kg sau đó giao lại cho Bảo tàng tỉnh lưu giữ và nghiên cứu. Phát hiện tiền cổ ở Đông Phước chỉ là sự mở đầu cho một loạt các phát hiện tiền cổ tiếp theo trong các năm 2000, 2001, 2002.

Từ những phát hiện đó đã có hơn một tấn tiền cổ đã được phát hiện và Phú Yên đã trở thành một trong những nơi phát hiện được nhiều tiền cổ nhất hiện nay. Song song với quá trình khảo sát các địa điểm phát hiện chúng tôi cũng đã tiến hành xử lý bước đầu một phần số tiền được lưu giữ tại Bảo tàng và đã thu được hơn 80 hiệu tiền đồng, trong số đó có 60 hiệu là các triều đại phong kiến Trung Quốc gồm Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…, 2 hiệu tiền của Triều Tiên, 1 hiệu tiền của Nhật Bản, số còn lại là tiền của các triều đại phong kiến Việt Nam bao gồm tiền của nhà Lê, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn (bao gồm cả các chúa Nguyễn) và cả tiền của Mạc Thiên Tứ đúc ở Hà Tiên vào đầu thế kỷ XVIII. Riêng về tiền kẽm chiếm khoảng 80% trong tổng số tiền phát hiện được nhưng phần lớn lại bị oxy hóa và bị hư hỏng nặng. Xử lý bước đầu số tiền còn có khả năng nghiên cứu đã thu được 57 hiệu tiền khác nhau trong số đó đáng chú ý có 15 hiệu tiền chưa thấy một tài liệu nào đề cập đến.

060510-tienco.jpg
Tiền cổ tìm thấy tại Phú Yên - Ảnh: DTX

2. Khi tìm hiểu về các di tích Chămpa ở Phú Yên chúng ta thấy phần lớn các di tích đều tập trung hai bên bờ sông Đà Rằng như di tích Tháp Nhạn, di tích Đông Tác, di tích Thành Hồ, di tích Tháp Bà. Xa hơn nữa về phía tây là các di tích ở Sơn Giang, Sơn Hà. Lên đến đầu nguồn sông Ba còn có di tích khác như Yang Mun (huyện Ayun Pa , Gia Lai), điêu khắc đá ở Đắc Bằng (huyện Krông Pa , Gia Lai)…

Trong số các di tích ở dọc sông Đà Rằng đáng chú ý nhất là di tích Thành Hồ, đây là tòa thành được đánh giá là còn nguyên vẹn nhất trong số các tòa thành của người Chăm hiện nay. Gần đây chúng tôi đã tiến hành khảo sát di tích này rất nhiều lần và đã phát hiện được một số các hiện vật điêu khắc đá như đầu tượng thần, linga, yony. Chúng tôi cũng đã tìm thấy rất nhiều mảnh gốm Chăm của các loại nồi, vò, kenđi và các đầu ngói mặt hề, ngói lòng máng. Các loại đồ gốm này có niên đại rất sớm khoảng thế kỷ VII, VIII. Từ những hiện vật thu được cũng như dựa vào qui mô kiến trúc cho thấy rằng Thành Hồ là tòa thành quan trọng của người Chăm.

Những quan điểm mới nhất nghiên cứu về Chămpa hiện nay đều cho rằng nhà nước Chămpa trong quá khứ là tập hợp của nhiều tiểu quốc khác nhau. Mô hình của một tiểu quốc là lấy một con sông làm trục qui chiếu đi từ hạ lưu lên thượng nguồn gồm có Hải cảng – Kinh thành – Thánh địa (!). Mô hình trên đây nếu so sánh ở sông Đà Rằng chúng ta sẽ biết chắc chắn rằng kinh đô chính là Thành Hồ. Vậy hải cảng ở đâu? Quay trở lại khu vực phát hiện tiền cổ ở Đông Phước qua nhiều lần khảo sát cho thấy ở đây ngoài số lượng 300kg phát hiện năm 2000, trước đây trong quá trình canh tác hoa màu một số người cũng đã phát hiện được rất nhiều tiền cổ. Xét vị trí ở Đông Phước nằm trên một vùng đất rất thuận lợi về đường thủy, là điểm hợp lưu giữa sông Chùa, lạch Bàu Dài, và một nhánh sông Đà Rằng tạo thành một ngã tư đường nước. Giáo sư Trần Quốc Vượng sau nhiều lần khảo sát đã cho rằng Đông Phước là một hải cảng dưới thời Chămpa với lợi thế là con sông duy nhất ở miền Trung thông lên đến Tây Nguyên có một vai trò rất quan trọng đối với người Chăm. Trên con sông này với cảng thị là Đông Phước là cửa ngõ thông ra biển và Thành Hồ cửa ngõ lên Tây Nguyên – Châu Thượng Nguyên của Vương quốc Chămpa (2).

3. Sử cũ cho biết dưới thời nhà Nguyễn đã đặt trạm giao dịch trên sông ba để thông thương với khu vực rừng núi rộng lớn ở phía tây Phú Yên. Đại Nam nhất thống chí viết rằng: “Ở xã Thạch Thành phía tây huyện Tuy Hòa có trường giao dịch và thủ sở ở đây, nước từ sông Ba chảy qua phía Nam huyện lị đổ ra trấn Đà Diễn (3). Thạch Thành là vùng bán sơn địa tiếp giáp giữa đồng bằng Tuy Hòa và vùng núi phía tây. Đây là cửa ngõ thông thương với Thủy Xá, Hỏa Xá dưới thời nhà Nguyễn và cũng là nơi trao đổi, buôn bán các sản phẩm nổi tiếng một thời của núi rừng như trầm hương, ngà voi, sừng tê cũng như các loại lâm sản quí hiếm khác xuống miền xuôi và ngược lại các loại hàng hóa từ dưới xuôi cũng thông qua đây đi lên miền núi. Sự giao lưu này còn đọng lại trong câu ca của người dân Phú Yên – dân xứ nẫu:

Ai về nhắn với nẫu nguồn

Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên.

Trong quá trình khảo sát các địa điểm phát hiện tiền cổ chúng tôi nhận thấy rằng những địa điểm này đều nằm gần hai bên bờ sông Đà Rằng. Địa danh Nhiễu Giang nơi phát hiện được rất nhiều tiền cổ đã được nhắc đến từ đầu thế kỷ XIX. Một số địa danh khác như Sơn Hà, Chí Thán xuất hiện muộn chút ít.

Đây cũng là những làng cổ của người Việt ở phía tây Phú Yên. Điều đó có thể phỏng đoán rằng đó là những điểm dân cư được hình thành cùng với quá trình giao lưu về thương mại trên sông Ba. Và như vậy người Việt đã tiếp nối truyền thống của người Chăm, lấy sông ba làm con đường giao thông nối miền ngược với miền xuôi, nối núi rừng với biển cả.

4.Trước khi có hệ thống thủy nông Đồng Cam , đồng bằng Tuy Hòa khó có thể trở thành vựa lúa như nhiều người thường nghĩ. Một trong những bằng chứng là khi thực dân Pháp phá hủy hệ thống thủy nông Đồng Cam vào những năm 1951, 1952 thì Phú Yên đã lâm vào nạn đói trầm trọng. Dưới thời vương quốc Chămpa, người Chăm trong lúc xuất khẩu đủ thứ hàng hóa ra thế giới bên ngoài kể cả nước ngọt thì một mặt hàng không bao giờ được xuất khẩu đó là lúa gạo (4). Cuối thế kỷ XVIII một bầy tôi theo hầu Đông Cung Cảnh khi qua Phú Yên có thơ rằng:

Phú Yên điền địa trích

Sơn dã biến tang ma.

Tráng lão xuy cơ mạch;

Hành nhân khát mãi qua.

Lâm sơn triều phóng mã;

Thủy thiển vãn phù sa.

Lĩnh thụ ngưng giai khí.

Thời kinh đế thử xa.

(Phú Yên đồng ruộng hẹp.

Dâu gai khắp nội gò.

Trẻ già đói luộc bắp,

Hành nhân khát mua dưa.

Rừng xưa sớm thả ngựa

Sông cạn chiều thả bè.

Khí tốt tụ cây núi,

Lúc xe đông Cung qua) (5)

Nhắc đến điều này để thấy rằng trong quá khứ nông nghiệp không phải là thế mạnh của Phú Yên. Những phát hiện về tiền cổ cho chúng ta một nhận thức rằng thương nghiệp (và cả ngư nghiệp) có thể là những ngành kinh tế chủ yếu của vùng đất Phú Yên trong các thế kỷ XVII, XVIII và XIX.

------------

(1) (4) Trần Quốc Vượng, Miền Trung Việt Nam và văn hóa Chămpa, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/1995, trang 8-24.

(2) Ngô Văn Doanh – Thành Hồ, Cửa ngõ Châu Thượng Nguyên (Tây Nguyên) của Vương quốc Chămpa, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3/2001, trang 55-60.

(3) (5) Đại Nam Nhất thống chí, Tập 3, Nxb Thuận Hóa 1997.

Từ khóa:

Ý kiến của bạn