I/ PHÚ YÊN – ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH, THIẾT CHẾ HÀNH CHÍNH THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN
Vào năm Mậu Dần (1578), người Chiêm lấn chiếm biên cảnh, Lương Văn Chánh tiến quân đến sông Đà Diễn, đánh lấy được Hồ Thành. Lương Văn Chánh chiêu tập dân Chiêm khai khẩn đất hoang ở Cù Mông, Bà Đài, cho dân di cư đến đây. Lại mộ dân khai hoang ở trên dưới triền sông Đà Diễn, chia lập thôn ấp, ngày dần đông đúc (Đại
![]() |
Ảnh: Dương Thanh Xuân |
Năm 1611, quân Chiêm quấy phá biên thùy, Nguyễn Hoàng cử Chủ sự Văn Phong đem quân đánh vào, dẹp yên, lấy đất ấy lập thành 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, đặt phủ Phú Yên thuộc dinh Quảng Nam. Văn Phong được dùng làm Lưu thủ (Đại Nam Nhất thống chí, Q.10, 11, Nxb Nha văn hóa SG, 1964, tr7). Chúa Nguyễn bắt đầu đặt nền hành chính ở Phú Yên. Từ đây xuất hiện những địa danh hành chính tiếng Việt trên vùng đất mới. Dinh Quảng
Năm 1629, đặt dinh Trấn Biên, Đại Nam Nhất thống chí ghi “Đời Chúa Phước Nguyên thứ 16, Văn Phong phản nghịch, Chúa sai võ tướng Nguyễn Vinh đánh dẹp rồi lập dinh Trấn Biên sau gọi là dinh Phú Yên, đặt quan Trấn thủ, lại ở theo những chỗ bờ biển đặt làm 38 thuộc”. Thuộc cũng như tổng, song nhà nước trực trị, chưa để xã dân bầu cử cai tổng hay phó tổng. Từ đây dinh Trấn Biên cai quản phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa, giữ một vị trí quan trọng trong việc thống quản xứ Nam Bàn gồm Thủy Xá, Hỏa Xá và vùng thượng du, kiểm soát và khai thác các đảo phía biển Đông, là tiền đồn phía Nam của Chúa Nguyễn.
Khi Nguyễn Phúc Nguyên lên nối nghiệp Nguyễn Hoàng, Phúc Nguyên thải hồi các quan lại do nhà Lê cử, cải tổ bộ máy chính quyền, các dinh đều có các ti: Ti Xá Sai (coi việc kiện tụng), Ti Tướng Thần Lại (có nhiệm vụ thu thuế trong dân và cấp lương bỗng cho quan lại, binh lính), Ti Lệnh Sử (trông coi về lễ nghi). Năm 1692, Chúa Phúc Chu tự xưng Lê Đại Việt Quốc Vương, dự định tách Đàng Trong thành một nước riêng nhưng không thành. Năm 1746, Chúa Phúc Khoát xưng Vương, thành lập Triều đình, đổi các chức Ký Lục, Nha Úy, Đồ Tư, Cai Bạ làm Lại Bộ, Lễ Bộ, Hình Bộ, Hộ Bộ và đặt thêm 2 bộ: Binh và Công, đặt Hàn Lâm Viện.
Các dinh, trấn có Trấn Thủ đứng đầu, có 3 vị quan trợ lực gọi là Cai bộ hay Tri bạ trông coi công việc thuế má, kho bạc, Ký lục và Cai án trông coi việc hình án. Các viên chức làm việc tại các Ty: Xá Sai, Lệnh Sử, Tướng Thần Lại được gọi tên là: Câu Kê, Cai Hợp, Thủ Hợp và Bản Ty Lại.
Thời các Chúa Nguyễn, dinh quan Trấn Biên đặt tại thôn Hội Phú (xã An Ninh Tây). Dinh Trấn Biên cai quản phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Thành Hội Phú dinh Trấn Biên được Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh xây dựng sau khi ông này vâng mệnh Chúa Nguyễn đánh dẹp xong cuộc phản kháng của Lưu thủ Văn Phong.
Lúc này, theo qui chế hành chính chung của xứ Đàng Trong thì dưới huyện là tổng, dưới tổng là xã, dưới xã là thôn, làng; thuộc là đơn vị hành chính tương đương tổng, dưới huyện – Lê Quý Đôn giải thích: “Ngày trước, họ Nguyễn mở mang bờ cõi về phương Nam, thiết lập các phủ, huyện; Những nơi gần rừng, núi, hoặc những nơi ở dọc khe, dọc biển đều được đặt làm thuộc, bao nhiêu những phường, thôn, châu, man linh tinh và phân tán đều được lệ phụ vào thuộc cả… cùng các tổng đồng nhau,… các thuộc không được thiết lập trong thời gian quá 7 năm”. Theo thống kê của Lê Quí Đôn thì vào năm 1726, phủ Phú Yên có 38 thuộc; con số này lớn hơn hẳn các phủ khác; về dân đinh phủ Phú Yên có 4324 dân đinh; dân tuy không đông nhưng các khoảng thuế và nguồn lợi thu được lớn hơn các phủ lân cận (xem Lê Quí Đôn, Phủ Biên tạp lục, PQVK ĐTVH xuất bản, SaiGon, 1972).
Năm 1653, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Chiêm Thành là Bà Tấm đưa quân xâm lấn Phú Yên. Chúa Nguyễn sai cai cơ Hùng Lộc làm Thống binh đem 3000 quân đi đánh. Bà Tấm thua chạy, đại quân Chúa Nguyễn tiến đến sông Phan rang. Bà Tấm xin hàng. Chúa Nguyễn lấy đất mới thu được đặt làm dinh Thái Khang. Từ đây vai trò Trấn biên của Phú Yên chấm dứt.
Năm 1771, anh em Tây Sơn khởi nghiệp binh tại Tây Sơn thượng và Tây Sơn hạ. sau khi hạ thành Qui Nhơn, quân Tây Sơn tiến chiếm Quảng
Có những thời điểm vùng đất Phú Yên là chiến trường giữa quân Chúa Nguyễn và quân Tây Sơn. Đến năm 1801, Phú Yên hoàn toàn do chúa Nguyễn kiểm soát. Chúa Nguyễn đặt làm dinh Phú Yên, đặt công đường và quan cai trị, đóng lị sở tại thành Hội Phú.
II/ PHÚ YÊN – ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH, THIẾT CHẾ HÀNH CHÍNH THỜI TRIỀU NGUYỄN
Sau khi đánh thắng hoàn toàn Tây Sơn, Gia Long thiết lập bộ máy cai trị đất nước, cả nước chia ra 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (Ninh Bình hiện nay) trở ra gọi là Bắc Thành có 11 trấn, gồm 5 nội trấn là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc và Hải Dương; 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn là: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Vĩnh Tường và Hà Tiên. Đất Kinh kỳ có 4 doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (Thừa Thiên hiện nay), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng
Ở Bắc thành và Gia Định thành đều đặt chức Tổng trấn và Phó Tổng trấn để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan Lưu trấn hoặc Trấn thủ, quan Cai bạ và quan Ký lục để coi việc cai trị trong trấn. Trấn chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức Tri phủ, Tri huyên, Tri châu để coi việc cai trị.
Từ 1808 đến 1826 trấn Phú Yên gồm có 2 huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, có 6 tổng (mỗi huyện có 3 tổng: Thượng, Hạ, Trung) và thuộc Hà Bạc; huyện Tuy Hòa cai quản 80 xã, thôn, giáp, phường; huyện Đồng Xuân cai quản 63 xã, thôn, phường, châu; thuộc Hà Bạc coi 28 thôn, ấp, phường; suốt 2 năm 1815-1816 toàn trấn Phú Yên đo đạc xong ruộng đất và lập địa bạ cho từng thôn, ấp, huyện Tuy Hòa có trên 3200 mẫu ruộng đất sử dụng trong số diện tích là trên 15406 mẫu, huyện Đồng Xuân có trên 13492 mẫu ruộng đất sử dụng trong số diện tích là trên 22133 mẫu đất.
Năm Minh mệnh thứ 7 (1826) trấn Phú Yên trở lại thành phủ Phú Yên, đặt chức Tri phủ. Năm 1831, đổi làm phủ Tuy An cho thuộc vào trấn Bình Định.
Vào 2 năm 1831-1832 (Minh Mạng thứ 12-13), Minh Mạng theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh, chia cả nước ra làm 30 tỉnh như sau: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Như vậy đơn vị hành chánh tỉnh ở nước ta có từ năm 1831-1832.
Mỗi tỉnh cho xây dựng 1 tòa thành làm nơi đóng quân thường trực của tỉnh đồng thời cũng là lỵ sở hành chánh của tỉnh. Thành của tỉnh Phú Yên được xây tại thôn long Uyên (xã An Dân), dựa theo kiểu thành Vauban.
Việc chọn Long Uyên xây dựng lỵ sở ngoài lý do địa hình, phong thủy, có lẽ sau gần 30 năm cai trị các quan lại địa phương và Triều đình nhà Nguyễn nhận thấy Long Uyên thuận lợi hơn Hội Phú. Lỵ sở đóng ở Long Uyên đi lại cả đường thủy và đường bộ đều tiện lợi, từ Tiên Châu lên Long Uyên tàu thuyền đi thông suốt, từ Long Uyên đi ngựa, đi bộ về các phủ, huyện, làng, xã trong tỉnh cũng thuận hơn. Trong điều kiện tình hình chính trị – quốc phòng ổn định, Triều đình đang đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nên việc chọn lỵ sở mới cho tỉnh là để đáp ứng yêu cầu mới phục vụ cho việc cai trị tại địa phương cũng như cho Triều đình.
Minh Mạng đặt các chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh, Thủy sư lãnh binh để trông coi việc cai trị, tuần phòng ở các tỉnh, thành. Phân chia chức vụ, đảm nhiệm, qui định nhiệm vụ cụ thể cho Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát. Định ra 31 điều qui định về chế độ tâu báo lên vua, về việc xét xử hình án, điều động quân đội, tuyển binh, huy động thuế khóa… Tỉnh Phú Yên đặt Quan Bố Chánh (chánh tam phẩm) phụ trách các công việc hành chính thuần túy và công việc thuế má, Quan Aùn Sát (tòng tam phẩm) phụ trách công việc kiện tụng, thuộc Tổng đốc Bình Phú thống hạt.
Năm 1853, đổi tỉnh Phú Yên làm đạo để rút bớt quan lại. Triều đình vẫn lấy thành Long Uyên – An Thổ làm lỵ sở đạo Phú Yên. Đặt chức Quản đạo (tòng tứ phẩm) trông coi. Quản đạo Phú Yên kiêm lý 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Đạo Phú Yên do tỉnh Bình Định thống thuộc, giấy tờ phải ghi 3 chữ tỉnh Bình Định lên đầu.
Tháng 2-1864, Triều đình cho phép các tỉnh “Tả trực kỳ” (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận) được thành lập đội quân mang tên “Đội quân thiên thiện” (quân thiên thiện gồm binh lính các tỉnh phạm tội và tù phạm các nơi bị phát lưu đi làm việc quân còn mạnh khỏe, tuổi dưới 60). Tháng 3-1864, Triều đình đặt thêm 1 Phó quản đạo (trật chánh ngũ phẩm) ở Phú Yên, bổ sung thêm 1 bát phẩm thư lại, 1 cửu phẩm thư lại, 6 nhập lưu thư lại. Như vậy có: 1 Chánh quản đao., 1 Phó quản đạo, 2 bát phẩm thư lại, 2 Cửu phẩm thư lại và 16 vị nhập lưu thư lại.
Năm 1876 (Ất Hợi – Tự Đức thứ 28), đạo Phú Yên nâng lên thành tỉnh Phú Yên. Tỉnh Phú Yên có 1 Bố Chánh, dưới quyền có 1 Án sát coi về tư pháp, 1 Đốc học coi về giáo dục, nhưng vẫn do Tổng đốc Bình Phú thống quản.
Khi thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị của chúng trên đất nước ta, ở Phú Yên vẫn giữ tên gọi đơn vị hành chánh cấp tỉnh. Theo Hiệp ước Triều đình nhà Nguyễn ký với Pháp ngày 6-6-1884 thì Trung Kỳ gồm 12 tỉnh: Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa; nhưng mãi đến năm 1921 Toàn quyền Đông Dương mới ra Nghị Định thành lập tỉnh Phú Yên (vào ngày 17-10-1921). Quan chức đầu tỉnh là Tuần vũ nhưng quyền hành do Công sứ Pháp nắm.
LÊ XUÂN ĐỒNG
(*) Diên cách: Quá trình hình thành và thay đổi đơn vị hành chính