Trong thời gian 68 năm tồn tại (1629 – 1698), dinh Trấn Biên – Phú Yên tiến hành hai chiến dịch quan trọng nhưng ôn hoà vào phần đất mệnh danh Thuỷ Chân Lạp, để khẳng định cuộc Nam tiến và phát triển dân tộc ta đến đồng bằng sông Cửu Long rất phì nhiêu song còn hoang vắng.
![]() |
Trên sông Đà Rằng - Ảnh: NGỌC HỮU
|
Về chiến dịch lần thứ nhất, sử Thực lục ghi: Tháng 6 năm Mậu Tuất (1658) “vua nước Chân Lạp (vốn tên là Cao Miên) là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thuỳ. Dinh Trấn Biên báo lên. Chúa Hiền – Nguyễn Phước Tần sai Phó tướng Trấn Biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là Xuân Thắng, Tham mưu là Minh Lộc đem 3.000 quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, nay thuộc huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hàng năm nộp cống” (1).
Cùng mô tả biến cố này, Trịnh Hoài Đức còn nói thêm: “Khi ấy hai xứ Mỗi Xoài (cũng đọc Mỗi Xuy), Đồng Nai đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Miên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Miên sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành cản trở” (2). Sự thật “người Cao Miên” đây gồm người Khơ Me thì ít, còn phần nhiều là các dân tộc thiểu số: người Mạ (hay Chema), người Sê (Sré), người Stiêng… Như vậy, ngay trong nửa đầu thế kỷ XVII, mặc nhiên các xứ Mỗi Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai và Sài Gòn – Bến Nghé (nơi có hai đồn thu thuế từ năm 1623), đã trở thành khu vực biên cảnh của Việt Nam. Phó tướng Tôn Thất Yến đem quan quân dinh Trấn Biên – Phú Yên đến hạ thành Hưng Phước ở Bà Rịa là thi hành một nhiệm vụ an ninh trật tự trên phần lãnh thổ nội thuộc, dẫu chưa chính thức đặt thành phủ huyện.
Tháng giêng năm Kỷ Mùi (1679), “tướng cũ nhà Minh là Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến cùng Tổng binh Cao Lôi Liêm Trần Thượng Xuyên và Phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung (Thuận An) và Đà Nẵng, tự trần là bộ thần nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi nhà Thanh, nên đến xin làm tôi tớ” (3). Bấy giờ, chúa Hiền – Nguyễn Phước Tần bàn bạc với định thần rồi cho họ vào đất Đông Phố (tên cố của Gia Định) mà lập nghiệp. “Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho; binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hoà). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập”.
Nhưng 9 năm sau tức năm Mậu Thìn (1688), “Phó tướng Long Môn Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn dũng hổ oai tướng quân, dời đồn sang Nan Khê (nay là Vàm Nao giữa hai huyện Phú Tân và Chợ Mới của tỉnh An Giang), thủ hiểm đắp luỹ, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc. Vua chính nước Chân Lạp và Nặc Thu oán giận, bèn mưu với bề tôi là Óc nha Cống Sa bỏ việc triều cống và đắp ba luỹ Bích Đôi, Cầu Nam và Nam Vang, rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ. Vua thứ nhì là Nặc Nộn (đang đóng ở Sài Gòn) biết mưu ấy, cho chạy báo với dinh Trấn Biên. Phó tướng Mai Vạn Long liền gởi trạm dâng thư của Nặc Nộn” (4). Chúa Ngãi – Nguyễn Phước Trăn nổi giận, bèn triệu các quan bàn việc xuất binh. Chúa quyết định “lấy Mai Vạn Long làm thống binh, Nguyễn Thắng Long (Cai cơ Trấn Biên và con Nguyễn Dương Lâm) và Nguyễn Tân Lễ là Tả – Hữu vệ trận, Thủ hợp Văn Vỵ làm tham mưu, đem quân đánh Chân Lạp. Sai Hoàng Tiến làm Tiên phong, dưới quyền tiết chế của Vạn Long” (5).
![]() |
Đá Bia - Ảnh: Hiếu Ngọc
|
Tám tháng sau, “tướng sĩ Trấn Biên – Phú Yên ở lâu ngày không lập được công gì… Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn đem tình trạng ấy báo lên. Chúa cả giận… bèn sai Nguyễn Hữu Hào (con trưởng Nguyễn Hữu Dật) làm Thống binh, văn chức Hoà Tín làm Tham mưu, Thủ hợp Diệu Đức làm thị chiến, Nguyễn Thắng Sơn làm tiên phong, kén thêm quân ở Phú Yên, Thái Khang và Phan Rí để tiến đánh Chân Lạp. Bãi Mai Vạn Long làm thứ dân”.
Đầu năm Canh Ngọ (1690), “Nguyễn Hữu Hào tiến quân đóng ở Bích Đôi, chia bày dinh luỹ, thuỷ bộ tiếp nhau để làm thế liên hoàn, quân lệnh nghiêm chỉnh.
“Tháng 6, Nặc Thu lại sai Dao Luật đem 10 thớt voi nhỏ, 6 toà tê giác, 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, đến hiến. Hữu Hào lại nhận. Hoà Tín nói: Chúng ta ra quân, chỉ cần đánh địch. Nay tới chỗ địch mà lại không đánh, thì đợi cái gì? – Thắng Sơn cùng các tướng cũng xin trước chén Dao Luật, sau bắt Nặc Thu, không để cho họ đùa cợt! – Hữu Hào quát nói: Việc ở biên khổn, trách nhiệm là ở đại tướng. Ta từ nhỏ, theo cha đánh trận kể biết bao nhiêu, nay hả lại sợ bọn tiểu man này ư? Ta đã có kế sẵn, các người chớ hùa nhau làm ầm lên! – Bèn sai rút quân về đóng ở Bà Rịa, rồi kéo quân về. Hoà Tín và Thắng Sơn ngầm đem việc báo lên. Chúa cả giận nói: Hữu Hào cũng như Vạn Long, hãy đợi đem quân về sẽ hỏi tội”.
![]() |
Địa danh hai chiến dịch bình định Chân Lạp của dinh Trấn Biên - Phú Yên
1. Hưng Phước - 2. Mỗi Xuy (Bà Rịa) - 3. Đồng Nai - 4. Sài Gòn - 5. Rạch Gầm
- 6.
Bản đồ nền: Alinot 1906
|
“Tháng 8, quân về tới nơi (Phú Yên). Bọn Hoà Tín kể hết sự trạng Hữu Hào lần chần làm hỏng việc quân. Chúa sai tước bỏ quan chức của Nguyễn Hữu Hào, truất làm thứ dân” (7).
Chiến dịch lần thứ hai kéo dài 20 tháng (từ tháng giêng Kỷ Tỵ đến tháng 8 Canh Ngọ), tuy không hao binh tổn tướng nhưng tốn kém khá nhiều. Mức án phạt Chân Lạp là 50 con voi đực, 500 lạng vàng, 2.000 lạng bạc, 50 toà tê giác. Trước sau Nặc Thu mới nộp được 30 thớt voi nhỏ, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 toà tê giác và Dao Luật đút lót cho các quan nhiều trâu dê vàng lụa nữa. Hai vị Thống binh chỉ huy chiến dịch đều bị bãi chức và bắt về làm thứ dân: Mai Vạn Long có tội là không tiến binh khi thấy đối phương “đã hàng phục thì còn tiến công làm gì?” Lại nói: “Làm tướng cốt lấy ân tín làm trọng, không phải lấy chém giết làm oai”. Còn Nguyễn Hữu Hào có tội là không đánh và rút quân khi chỉ nhận được một phần hiến tặng, còn nói: “Họ đã về với ta, mà ta lại đánh, đó là bắt chẹt người trong lúc nguy, không phải là võ” và “vỗ yên người ở xa, quý lễ chứ không quý vật. Người xưa chỉ cống cỏ tranh, nào có phẩm vật gì?”.
Như vậy, xét đủ các mặt, hai cuộc hành quân lớn của dinh Trấn Biên – Phú Yên sang Chân Lạp để có kết quả quan trọng: cuộc hành quân năm 1658 đã khẳng định hai sứ Bà Rịa – Đồng Nai là phạm vi biên cảnh của ta và Nặc Ông Chân phải chịu nhận làm phiên vương. Cuộc hành quân năm 1689 – 1690 đã dẹp yên loạn Long Môn Hoàng Tiến và đem bình định vào sâu trong phiên quốc Chân Lạp. Cả hai cuộc hành quân đều nhằm vỗ yên dân chúng chứ “không lấy chém giết là oai”, chủ yếu để chuẩn bị cho sự nghiệp Nam tiến vĩ đại của dân tộc ta một cách ôn hoà và vững mạnh sau này.
Tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Minh – Nguyễn Phước Chu “sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (cũng gọi là Kính, con Nguyễn Hữu Dật và em Nguyễn Hữu Hào) đi kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (cả hai huyện thuộc phủ Gia Định). Khi ấy đất đã mở rộng được nghìn dặm, dân có trên bốn vạn hộ” (8). Đây là cuộc kinh lược chứ không phải cuộc hành quân. Phải chăng hai cuộc hành quân của dinh Trấn Biên – Phú Yên trước đây đã mở đường và chuẩn bị chu đáo cho cuộc kinh lược đặt phủ Gia Định (gồm toàn Nam Bộ) vào bản đồ nước ta.
Như vậy, dinh Trấn Biên – Phú Yên đã hoàn thành xuất sắc sự nghiệp
Nhà Nghiên cứu sử học Nguyễn Đình Đầu
________
1) Quốc sử quán, Đại
2) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí. Viện Sử học. Dịch giả: Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh. Hiệu đính và chú thích: Đào Duy Anh. NXB Giáo Dục.
3) TLTB, sđd, trang 125.
4) Như trên, trang 135
5) Như trên, trang 136.
6) Như trên, trang 139-140
7) Như trên, trang 140-143.
8) Như trên, trang 153-154