Củng Sơn là huyện lỵ Sơn Hòa từ năm 1899. Thời xưa là thôn Phước Sơn, có một bảo quan trọng làm nhiệm vụ biên phòng. Đây là cửa ngõ đi vào Thủy Xá, Hỏa Xá, là nơi các phái bộ hai tiểu quốc này dừng nghỉ trước khi đến tỉnh thành Phú Yên.
Củng Sơn cách thị xã Tuy Hòa 50km, theo Quốc lộ 25 đi lên và rẽ vào một đoạn ngắn. Thị trấn nằm sát bên bờ sông Ba. Một nhà nho có câu đối vịnh: Thiên cao địa hậu, sự nghiệp diên niên, Diệp lãnh uy nghi hổ cứ.
Thủy củng sơn triều, cơ đồ bách thế, Đà giang uyển chuyển long bàn. (Diệp lãnh là núi Lá, Đà giang là sông Đà Rằng đoạn này là sông Ba).
Năm 1946 Củng Sơn tiêu thổ kháng chiến, đồng bào tản cư, làng xóm bỏ hoang, đến năm 1954 mới phục hồi. Nhưng từ 1965 áp lực chiến tranh vây bọc bốn bên, không phát triển được.
Củng Sơn có Xóm Vườn thuộc thôn Đông Hòa trồng nhiều loại cây ăn trái, cam Củng Sơn từng nổi tiếng một thời. Buổi sáng ở Xóm Vườn có khi sương xuống trắng xóa nơi nơi. Những người con gái gánh nước đi đường xóm, khuất trong những hàng rào cây chìa vôi trồng dày hớt phẳng khác nào đi trong mây. Từ Tây Hòa xuống Đông Hòa có nhiều bến nước và bến đò sang các làng Tuy Bình, Chí Thán bên hữu ngạn sông Ba, nay thuộc huyện Sông Hinh.
Phía Bắc có Hòn Ngang, một ngọn núi thấp, chạy dài, từ xưa được gọi bằng cái tên sang trọng là Hoành Sơn. Sau năm 1975 thị trấn mở rộng ra đây và bây giờ vùng này là trung tâm với tên mới là thôn Trung Hòa. Năm 1984 hồ Suối Bùn được xây dựng gồm 2 hồ có sức chứa 375.000m3, tưới cho 30ha ruộng, cung cấp nhiều thủy sản và điều hòa sinh thái.
Phía đông nam có Bãi Điều, tiếng đồn nhiều ma, bên kia sông là núi Lá (nay thuộc huyện Sông Hinh) tiếng đồn nhiều cọp:
Thương em anh cũng muốn qua
Sợ cọp núi Lá, sợ ma Bãi Điều
Phía tây, nhà thờ Thiên Chúa giáo Tịnh Sơn cũng đã lâu năm.
Nhưng điều thú vị hơn là Củng Sơn có một chiếc cầu nay đáng gọi “cầu xưa”, mang tên cầu Mống hay cầu Suối Cá, bắc qua suối Cá tại thôn Bắc Lý, trên đường từ Ba Bảng vào thị trấn.
Cầu đúc xi măng cốt sắt thật kiên cố, chỉ có một nhịp, thành cầu hình vòng cung như cái “mống” (cầu vồng) do đó dân chúng gọi là cầu Mống. Cầu này xây dựng khoảng khi đập Đồng Cam hoàn thành, lúc ấy liên tỉnh lộ số 7 tiếp nối lên Cheo Reo có đoạn rẽ vào Củng Sơn, nay cầu ít nhất cũng trên 70 tuổi. Năm 1946, khi phá hoại nó chỉ gục xuống một đầu, còn tất cả đều nguyên vẹn, cho nên năm 1955 được nâng lên, xây lại phần trụ ấy là xong. Cùng tuổi với nó có lẽ là nhà thương Củng Sơn, hai gian nhà đúc đã bị phá hoại khi tiêu thổ kháng chiến. Cho nên đối với huyện Sơn Hòa nó là chứng nhân lịch sử từ nửa đầu thế kỷ XX, đã vượt qua bao biến cố tồn tại. So với những chiếc cầu lớn nhỏ khác trong tỉnh thì hình như tất cả đều mới làm lại: sau năm 1970 (cầu Đà Rằng), sau năm 1980 (cầu Ngân Sơn, cầu Nhơn Mỹ), sau năm 2000 (cầu Bàn Thạch)… Như vậy, nếu chúng tôi không lầm thì cầu Mống là chiếc cầu đường bộ cao niên nhất hiện nay ở Phú Yên.
Những người đã từng sống ở Củng Sơn tuổi thiếu nhi và thanh xuân vào các thời điểm trước 1945 và 1955-1975 có rất nhiều kỷ niệm với cầu Mống. Nơi đây mỗi buổi chiều cùng nhau ngồi mát, trò chuyện tâm tình.
Bây giờ đường vào thị trấn theo lối dốc Võng, không qua cầu Mống nên kích thước nhỏ hẹp của nó chẳng gây ảnh hưởng gì đến các loại phương tiện giao thông hiện đại. Nó nằm ở vị trí khiêm tốn trên một đoạn đường xóm, không xây lề, không trải nhựa… chẳng đòi hỏi gì hơn. Nên coi nó như là “vật chứng bảo tàng” của một thời thị trấn bắt đầu hình thành, cao niên mà vẫn bền vững, đáng quý lắm chứ. Nếu phá bỏ đi thì thật đáng tiếc vậy.
TRẦN TAM CHƯƠNG