Đại tá Phan Văn Kỉnh là một người con của Phú Yên đã kinh qua nhiều chiến trường, từng được đào tạo vô tuyến hàng không tại Trung Quốc. Sau khi về nước, ông là một trong những người lính của Viện Kỹ thuật quân sự Việt Nam chuyên phá, dỡ các loại bom từ trường - vũ khí lợi hại ở mọi chiến trường của quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Ông nguyên là Phó viện trưởng, Chính ủy Viện kỹ thuật quân sự Việt
TRẬN CHIẾN ĐẦU TIÊN
Năm 1953, quân Pháp mở chiến dịch Átlăng tập trung lực lượng đánh chiếm thị xã Tuy Hòa. Khi ấy, lực lượng bộ đội địa phương tiếp quản thị xã quá mỏng, chàng thanh niên Phan Văn Kỉnh lần đầu tiên tham gia đại đội 377 đã chạm trán quân địch. Ông cùng tiểu đội trưởng án ngữ ngay cửa ngõ vào trung tâm thị xã. 2 người lính trẻ bàn kế sách, nếu không đánh được nữa, tiểu đội trưởng sẽ núp dưới hầm bên dưới đống rơm trong khu vực Nhà văn hóa Diên Hồng bây giờ. Quân địch ào ạt kéo vào, Phan Văn Kỉnh ném ngay một quả lựu đạn và chạy vào một nhà dân. Không có chỗ ẩn nấp, chỉ có cái chuồng heo, mái tranh xuôi tới bụng. Thế là ông vào đó, đu mình lên mái tranh. Quân địch lùng sục suốt một buổi cũng không phát hiện được.
Địch hết lùng sục cũng là lúc bà cụ chủ nhà về. Ông nói: Cụ cho con nấp trong nhà, nếu địch có vào hỏi thì cụ bảo là bà con trên quê xuống chơi, súng con đã giấu ở sau nhà. Bà cụ bảo, nếu con ra ngoài bây giờ thì sẽ bị bắt ngay, cứ ở đây rồi tính!
![]() |
Đại tá - Nguyên Phó Việ trưởng, Chính ủy Viện kỹ thuật quân sự Phan Văn Kỉnh tại nhà ở thôn Liên Trì xã Bình Kiến Tp Tuy Hòa - Ảnh: Ly Kha |
Trời chạng vạng, ông tìm lại căn hầm tiểu đội trưởng núp. Tiểu đội trưởng thò đầu lên, bảo: “Từ trưa, tụi nó vào nhà lấy áo có chứng minh thư của tao rồi đi qua đi lại gọi tên tao nhưng tao biết, không lên. Giờ tao nghe tiếng mày, mới ra! Tối, 2 chiến sĩ tìm đường đi về phía biển gặp lại đơn vị rồi về thôn Liên Trì xã Bình Kiến.
Sau trận đánh này, ông Phan Văn Kỉnh còn tham gia các trận đánh tại dốc Mít, núi Sầm, Phú Ân, Gò Tranh…, hoạt động tại khu vực Phước Khánh, Quy Hậu (Hòa Trị) ngay giữa hai vùng địch chiếm đóng. Năm 1954, ông lên đường ra Bắc.
TRỞ THÀNH QUÂN NHÂN TRUNG QUỐC
Năm 1955, Sư đoàn 305 cử ông Phan Văn Kỉnh tham gia đoàn học viên Việt
Quân khu đông bắc Trung Quốc mở lớp đào tạo chủ nhiệm kỹ thuật cấp trung, sư đoàn tại Thẩm Dương. Ông Phan Văn Kỉnh được các đơn vị bạn đề nghị báo lại với đại sứ quán tham gia khóa học với tư cách là một quân nhân… Trung Quốc. Ông không được xem là người Việt
Phó chủ nhiệm nhà trường thấy ông đi 2 chiếc giày cùng phía, họ nhớ ra ông từ xứ nóng đến nên đã trang bị lại cho ông mọi thứ cần thiết. Đó là kỷ niệm khó quên trong những ngày học tại TQ.
CHUYỆN VỀ NHỮNG QUẢ BOM TỪ TRƯỜNG
Năm 1960, ông Phan Văn Kỉnh trở về Việt
Đầu tiên là model 0. Bom từ trường Model 0 được thả vào các tuyến đường và vùng biển của ta nhằm ngăn chặn quá trình vận chuyển khí tài, nhân lực từ miền Bắc vào miền
Chính từ những phát hiện này mà quân đội ta bắt đầu tháo gỡ được bom. Các chiến sĩ phải tháo bằng tay và khi đó, họ chỉ được mặc quần đùi để không “lỡ” mang theo vật gì bằng kim loại bên mình.
Model 0 - “nỗi kinh hoàng” đã được khắc chế. Quân đội ta, sau khi rà có bom từ trường thì tạo biến thiên đột ngột và giữ xung từ trường ở đỉnh điểm làm cho bom ngưng hoạt động và các chuyến xe thoải mái đi qua. Sau đó, dùng dây thép khoanh vùng, lấy pin tạo biến thiên có sườn cho bom nổ hoặc kéo tôn, thép chạy qua khu vực có bom để gây nổ. Bom từ trường Model 0 bị vô hiệu hóa, quân ta làm chủ được chiến trường. Đó là chuyện ở Viện trước khi có chiến sĩ Phan Văn Kỉnh. Sau đó, Viện Kỹ thuật quân sự còn thiết kế được loại xe phóng từ trường để phá bom. Đây là cách phá bom từ trường hiện đại nhất trên thế giới mà chính cha đẻ của loại bom này là quân đội Mỹ cũng không có. Cách phá bom của Mỹ là kéo kim loại chạy qua chỗ có bom và dùng trực thăng kéo kim loại chạy phía sau ở vùng đặt bom ngư lôi từ trường dưới nước.
Từ Model 0, quân đội Mỹ đã chế ra model 1 hoạt động theo sự biến thiên từ trường nhưng có chu kỳ 50 giây thức và 50 giây ngủ. Mục đích của Mỹ lúc này là chống xe phóng từ của ta. Khi phóng từ, Model 1 đang trong trạng thái 50 giây hoạt động sẽ nổ. Nhưng quả bom khác đang trong trạng thái thức và ngủ đều không nổ do quả nổ tạo biến thiên từ trường đột ngột. Một tính chất khác của Model 1 là thả xuống đất sẽ không hoạt động ngay mà tuỳ theo sự cài đặt, bom có thể hoạt động sau 30, 60 hoặc 90 phút sau đó. Và bom từ trường được thả chung với cả bom nổ chậm, nếu ta không phân biệt được loại bom sẽ không phá được. Nếu là bom nổ chậm thì không thể phá mà phải chịu xác suất thương vong. Nhưng rồi model1 cũng bị ta khắc chế, trong đó có sự đóng góp của ông Phan Văn Kỉnh.
Sau Model 1, quân đội Mỹ tiếp tục cho ra Model 2. Quy luật hoạt động thức, ngủ của Model 2 có chu kỳ 100 giây. Model 3 là sự tổng hợp của các model trước đó, nhưng bom thức ở mức độ giảm nhạy hơn so với các thế hệ trước.
Để phá được các thế hệ bom từ trường 1,2,3, quân đội ta chọn cách dùng xe phóng từ phóng liên tục 3 xung liền cách nhau 30 giây. Việc làm đơn giản này phá bỏ toàn bộ bom từ trường các thế hệ của Mỹ.
“Năm 1972, Mỹ ký hiệp định ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc và chịu trách nhiệm rà phá, tháo gỡ bom từ trường trên biển. Riêng trên bộ và trên sông, Mỹ trang bị thiết bị rà phá cho ta. Tại buổi làm việc đầu tiên về vấn đề này, chính quân đội Mỹ đã không tin chúng ta dám và tháo được kíp nổ bom từ trường. Sau khi chứng kiến cách phá bom từ trường của quân đội Mỹ mới phát hiện ra rằng, cách phá loại bom này của họ còn lạc hậu hơn ta nhiều” – Đại tá, Nguyên chính uỷ Viện Kỹ thuật quân sự Việt Nam Phan Văn Kỉnh nhớ lại.
TRONG CHIẾN DỊCH MÙA XUÂN 1975
Đó là chuyến đi từ Bắc vào
Ông Phan Văn Kỉnh nhớ lại “Chưa bao giờ thấy một cuộc hành quân vui như vậy. Đi ngay phía sau các cánh quân giải phóng miền
Vào Nha Trang, Cam Ranh, sau khi tiếp quản các kho tàng, bến bãi còn nguyên vẹn, ông Phan Văn Kỉnh xin phép thủ trưởng được về thăm nhà một ngày. Hơn 20 năm từ ngày lên đường ra Bắc, ông gặp lại gia đình. Bà mẹ già thoạt nhìn đã nhận ra con, kể rằng suốt mấy ngày bà ra đường đón từng đoàn quân mà ngóng tin con. Bà chỉ sợ, cuộc hành quân bị nhiều mất mát như chiến dịch Mậu Thân (1968). Nhưng những người lính cụ Hồ bảo với bà rằng: “Tụi con đi chuyến này là đuổi địch tới mũi Cà Mau, đuổi ra khỏi biên giới nên mẹ yên tâm”. Bà mẹ Liên Trì vui vì đất nước sẽ thống nhất, vì trong đoàn quân ấy có con trai của bà.
Vào Sài Gòn, nhân dân tiếp đón quân giải phóng rất nhiệt tình. Tổ của Phan Văn Kỉnh được một hiệu trưởng trường tư thục đón về nhà, xem như thượng khách. Sau vài hôm, tổ của ông phải xin gia chủ cho ra ngoài để sống như các anh em khác.
Đó là chiến dịch vô tiền khoáng hậu trong lịch sử thể hiện tinh thần quật cường và khát vọng tự do của dân tộc ta. Đại tá Phan Văn Kỉnh tự hào vì có mặt trong đoàn quân tham gia chiến dịch.
LY KHA