Tăng huyết áp ảnh hưởng đến sức khỏe của hơn 1 tỉ người trên toàn thế giới và là yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng nhất liên quan đến bệnh mạch vành, suy tim, bệnh mạch máu não và bệnh thận mạn tính. Năm 2005, trong số 17,5 triệu người tử vong do các bệnh tim mạch thì tăng huyết áp là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong 7,1 triệu người.
Thường xuyên kiểm tra huyết áp để biết cách điều trị bệnh - Ảnh: T.THỦY
Trong số những người bị tăng huyết áp, có tới 52% là không biết mình bị tăng huyết áp; 30% số người đã biết bị tăng huyết áp nhưng vẫn không có một biện pháp điều trị nào; 64% những người tăng huyết áp đã được điều trị nhưng vẫn chưa đưa được huyết áp về số huyết áp mục tiêu. Như vậy, hiện nay Việt Nam có khoảng 9,7 triệu người hoặc không biết bị tăng huyết áp, hoặc có biết bị tăng huyết áp nhưng không được điều trị hoặc có điều trị nhưng chưa đưa được số huyết áp về mức bình thường.
Tại Việt Nam, tần suất tăng huyết áp ở người lớn ngày càng gia tăng. Trong những năm 1960, tỉ lệ tăng huyết áp khoảng 1%, năm 1992 là 11,2%, năm 2001 là 16,3% và năm 2005 là 18,3%. Kết quả điều tra năm 2008 do Viện Tim mạch Việt Nam tiến hành ở người trên 25 tuổi tại 8 tỉnh, thành phố cho thấy tỉ lệ tăng huyết áp đã tăng lên đến 25,1%, nghĩa là cứ 4 người lớn thì có 1 người bị tăng huyết áp. Việt Nam hiện có khoảng 88 triệu dân, ước tính sẽ có khoảng 11 triệu người bị tăng huyết áp.
Tăng huyết áp nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ dẫn đến rất nhiều biến chứng nặng nề, thậm chí có thể gây tử vong hoặc để lại các di chứng ảnh hưởng đến sức khỏe, sức lao động, người bệnh trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội. Một số biến chứng chính của tăng huyết áp như biến chứng về tim (cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy tim…), biến chứng về não (xuất huyết não, nhũn não…), biến chứng về thận (đái ra protein, phù, suy thận…), biến chứng về mắt (mờ mắt, xuất huyết, phù gai thị), biến chứng về mạch máu (phình hoặc phình tách thành động mạch, các bệnh động mạch ngoại vi…). Chỉ một số ít bệnh nhân tăng huyết áp là có một vài triệu chứng cơ năng như: đau đầu, chóng mặt, cảm giác “ruồi bay”, mặt đỏ bừng, ù tai…
Khi được chẩn đoán bị tăng huyết áp, người dân cần được theo dõi, điều trị tích cực. Tăng huyết áp là bệnh mạn tính nên cần theo dõi đều, điều trị đúng và đủ hàng ngày, điều trị lâu dài. Mục tiêu điều trị tăng huyết áp là đạt “huyết áp mục tiêu” và giảm tối đa “nguy cơ tim mạch”. Điều trị tăng huyết áp cần hết sức tích cực ở những bệnh nhân đã có tổn thương cơ quan đích. Không nên hạ huyết áp quá nhanh để tránh biến chứng thiếu máu ở các cơ quan đích, trừ tình huống cấp cứu.
Các biện pháp thay đổi lối sống trong điều trị tăng huyết áp thường được áp dụng cho mọi bệnh nhân để ngăn ngừa tiến triển và giảm được số đo huyết áp, giảm số thuốc cần dùng, như: chế độ ăn đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng (dưới 6 gam muối mỗi ngày); tăng cường rau xanh, hoa quả tươi; hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và acid béo no; hạn chế uống rượu, bia; ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá, thuốc lào; tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi ngày; tránh lo âu, căng thẳng thần kinh; cần có chế độ thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý; tránh bị lạnh đột ngột.
Điều trị tăng huyết áp cần quản lý người bệnh ngay tại tuyến cơ sở (trạm y tế xã, phường) để đảm bảo bệnh nhân được uống thuốc đúng, đủ và đều; đồng thời giám sát quá trình điều trị, tái khám, phát hiện sớm các biến chứng và tác dụng phụ của thuốc. Chọn thuốc khởi đầu theo đúng trình tự: tăng huyết áp độ 1 lựa chọn một trong các thuốc sau: lợi tiểu nhóm thiazide liều thấp; ức chế men chuyển; chẹn kênh canxi loại tác dụng kéo dài; chẹn beta giao cảm (nếu không có chống chỉ định). Tăng huyết áp từ độ 2 trở lên: nên phối hợp hai loại thuốc (lợi tiểu, chẹn kênh canxi, ức chế men chuyển, ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II, chẹn bêta giao cảm). Từng bước phối hợp các thuốc hạ huyết áp cơ bản, bắt đầu từ liều thấp. Nếu chưa đạt được huyết áp mục tiêu thì cần chỉnh liều tối ưu hoặc bổ sung một loại thuốc khác. Trong trường hợp điều trị vẫn không đạt huyết áp mục tiêu hoặc có biến cố thì chuyển bệnh nhân lên tuyến trên hoặc đưa đến khám ở chuyên khoa tim mạch.
(Chương trình Mục tiêu quốc gia phòng, chống tăng huyết áp năm 2011)
GS.TS NGUYỄN LÂN VIỆT
Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam