Đoản khúc cho vùng cát - Truyện ngắn của HUỲNH THẠCH THẢO

Đoản khúc cho vùng cát - Truyện ngắn của HUỲNH THẠCH THẢO

Tôi sinh ra từ một vùng cát. Nơi nhắc đến dễ khiến người ta nghĩ tới một vùng nắng gió dãi dầu, con người trần lưng khổ ải. Mà quả thiệt, mới bảnh mắt đã thấy cát, đến khi nằm xuống sau một ngày lại ở bên cát. Cát với người, người với cát, bấu víu chẳng rời.

Tôi sinh ra từ một vùng cát. Nơi nhắc đến dễ khiến người ta nghĩ tới một vùng nắng gió dãi dầu, con người trần lưng khổ ải. Mà quả thiệt, mới bảnh mắt đã thấy cát, đến khi nằm xuống sau một ngày lại ở bên cát. Cát với người, người với cát, bấu víu chẳng rời.

080503-MINH-HOA.jpg

Minh họa: HỮU THỌ

Triền dốc nào không in bóng người và bóng người ở trên bóng cát. Cát chập chùng, cát lô nhô hết bãi này đến đồi nọ, hết làng này sang làng kia. Khi còn sống nội thường kể, nơi này trước kia là rừng, có muông thú từ rắn rít đến cọp beo, vùng đất Hoành Lâm hay rừng Ngang xanh thẳm bóng cây lâu dần bị sa mạc hóa tạo nên từng ốc đảo là làng bây giờ. Dòng sông năm xưa với nhiều nhánh rẽ giờ là con lạch bầu Hạ vắt ngang, nước trôi như cọng chỉ ngoằn ngoèo, nóng đến tê dại vào hè, sùng sục ầm ào thoáng chốc vào mùa lũ giữa không gian cát. Xa thật xa là biển và gần thật gần là đồng. Ruộng lúa toàn phèn ăn nước trời mỗi năm một vụ, còn lại dành cho cát trôi cát phủ với cỏ úa lưa thưa cằn cỗi, con cua con rạm nhỏ như ngón tay trỏ nhưng chiếc mai thì dày cộp vùi mình trong cát. Dân ở đây thuộc dạng bám đất chịu đựng như chấp nhận mảnh đất mình được sinh ra, đói no là lẽ thường tình.

Còn việc má tôi lấy chồng, gái ruộng về đồng cát cũng thiệt hy hữu. Má biết cha trong chuyến cùng chị em xuống xóm biển mua cá về làng bán. Lúc vượt cồn cát cao ngút, đôi quang gánh bung néo vung vãi cá chuồn, cá ồ, cá nục xanh lấp loáng. Má ngồi khóc trên vùng đất lạ thì cha xuất hiện, cây tre đực vàng óng dùng neo thuyền vào bãi thành đòn gánh. Khiêng cá trên vai, hai người băng băng vượt trảng lên đồng. Đến đường cái quan dọc kênh nước để sang làng, má chưa kịp nói lời cảm ơn thì cha đã quay người về vùng cát. Đợt sau, nơi bến cá, má dáo dác kiếm tìm người thanh niên có nước da rám nắng, vồng ngực vun nở lấm tấm cát, nụ cười nửa miệng vừa bẽn lẽn vừa phớt đời nhưng không gặp. Vài ngày sau, trong lối ngõ hun hút tre xanh, có tiếng rao cá lanh lảnh và tiếng cười đùa của các bạn gái cùng xóm. Tò mò, má nhìn qua hàng râm bụt để nhận lấy bất ngờ, chàng trai là cha tôi sau này đang đi bán dạo cá ồ trụng nước sôi ngâm muối, bóc mang, xẻ lườn, món ăn ưa thích của xứ đồng xa biển gần nửa ngày đường. Đàn ông xứ biển, sau những ngày bôn ba trên sóng nước, được lên bờ là nghỉ ngơi ăn nhậu lấy sức cho chuyến kế tiếp, việc khác chỉ để đàn bà. Đằng này... Sau này, má mới biết cha người gốc ruộng, lúc nông nhàn theo bạn đi biển kiếm tiền phụ giúp gia đình. Còn cha, khi gặp má, ông yêu liền, tắp lự như gió cát cuộn tròn. Ông thường kể, má tôi ngày ấy là cô gái vóc người thon thả, mắt đen ngơ ngác dưới vành nón lá khi lựa chọn mớ tôm, con cá lúc thuyền vừa cập bến. Và ông đã thắt cả ruột khi thấy cô ngồi khóc trên triền dốc chang nắng. Sau chuyến đi biển về, ông làm người bán cá để đến làng cô gái ấy. Năm sau, má theo cha về vùng cát. Đoàn đưa dâu rồng rắn đến đường cái quan, nhìn sang từng trảng cát nhấp nhô trong nắng mọi người liền tụt dép, tháo giày, quàng khăn nối nhau vượt qua các triền dốc đứng. Còn cha cõng má băng băng dưới nắng chạy tắt về làng kịp gọi mọi người tiếp ứng bằng võng, bằng nước, bằng trầu cau ở chặng nghỉ chân giữa đường để lấy hơi mà đi tiếp. 

Ngày tôi lê la vọc cát trước nhà và mắt ngóng má tận phía đồng xa, dõi cha từ hướng biển thì ngoại đến thăm. Tay vừa giở nón, tay đặt thúng gạo ra thềm, ngoại vội ôm tôi mà than trời trách đất: “Đất và cát khác nhau lắm, sẽ khổ mãi, cháu ơi!”. Lại ca cẩm: “Sao cứ đùm túm nhau đến xứ này, mà không chịu về ngoại cho đỡ khổ”. Và sau này, tôi mới biết vì sao má đã sống hết mình, đổ đến giọt mồ hôi lẫn dòng nước mắt cuối cùng nơi vùng đất này, đến hết quãng đời còn lại khi tôi ra đi.

Tôi đã lớn dần trong thời chiến, vùng đất trở thành lằn ranh giao tranh vì chỉ toàn là cát. Đêm đêm cha mở đài nghe cải lương, ông vặn thật nhỏ tiếng trong khi những trái hỏa châu bắn lên bầu trời tỏa màu vàng nhạt. “Từ là từ phủ tướng... bảo kiếm sắc phong lên đường...”. Đã quá nửa những ngôi làng bị san bằng, hết bến cá ra vào, đồng bị co hẹp để dành cho sân bay, bồn nhiên liệu, bót canh... Có cả Mỹ đen, Mỹ trắng, Đại Hàn bao bọc vòng trong vòng ngoài, lừ lừ đạn lửa lẫn tiếng trực thăng phành phạch lên xuống, vãi cát tung tóe trên sân, rào rào trên từng mái nhà lợp tôn trắng lóa. Nửa số làng trông xa như ốc đảo trên cát ấy trắng khăn tang trong anh hùng và đổ nát. Khi giải phóng về, những thím Ba, cô Bảy, bác Chín chạy theo đoàn quân hướng về Nam còn hằn vết dép lốp trên cát, miệng rối rít hỏi thăm và nhận lấy nụ cười cùng những cái lắc đầu. Rồi chị Hiền, chị Son, chị Búp sinh ra trên vùng cát, từng có những buổi hò hẹn trên vùng cát kể cả má tôi cũng chấp nhận người thân mãi mãi không về. Má còn đúng hai bàn tay trắng, hằn trên khóe mắt những dấu rãnh của thời gian khi trước mặt là biển vắng và sau lưng là cánh đồng phèn. Kỷ niệm về cha, đêm đêm trở về áo ướt đẫm sương, lùa vội chén cơm gánh hai phần khoai một phần gạo rồi lặng lẽ ra đi cùng tiếng lách cách súng đạn cứ mãi đeo đẳng trong tâm trí tôi mỗi khi đất nước mở hội mừng ngày thống nhất. 

Tôi cảm nhận mình lớn khi không còn cha bên cạnh và nói má về lại đồng làng bên ngoại. Má im lặng quay đi không nói. Tôi vác gàu đi tát nước ruộng, mỗi sào tát đến ngàn gàu và cứ nhìn sao trời mà đếm, càng nhiều sao thì ngày mai càng nắng gắt, nước bốc hơi nhanh nên lại bì bọp vục gàu để tát. Đồng thì cuối nguồn con lạch nên tạo nhiều gò, nhiều bãi, nhiều ao, nhiều hố. Mỗi đứa bạn mang một cái tên trong mênh mang biển cát. Đen “Mè” ở đồng Mè, Hoa ở gò Mì, Nùng bên gò Giữa, Ngân phía ao Đìa, rồi hố Thùng, hố Phểu... Mỗi một mùa trăng, dọc theo triền cát trên đường ra ruộng thì khối chuyện kể nhưng mãi cũng hết, lại chơi trò nghịch cát. Ngày thì cát bay cát nhảy, đêm thì cát cười cát réo, cát chạy tung tăng, cát lăn cát múa, cát hát cát reo cười khanh khách tít mù tiếng con trai con gái. Ngân có thửa ruộng cao trên gò, tôi thường giúp Ngân vục gàu đến ba ngàn lần đếm nên tận gà gáy mới về, không thể nhìn sao trời mãi nên lại cúi nhìn bàn chân Ngân bên cạnh, đôi chân trần trắng lôm lốp thật khác với con gái vùng cát. Có lần, nghỉ chân bên bụi dứa dại, Ngân bảo: “Mẹ anh chọn tên thật hay” .Tôi phì cười: “Mẹ đặt để nhớ vùng đất này, loại cỏ sống trên đá thì hay ho gì, cát mà sống chẳng nổi, huống hồ...”. Vùng đất của sáu tháng mưa ngút ngàn, quật réo ào ào ruộng sâu ngập trắng cả nước. Còn sáu tháng nắng thì nóng, hừng hực nóng cát như khô cong từng mảng, gót chân từ lúc nhỏ đã chai cứng khô như da bò. Ngân lại bảo: “Anh có nghĩ mình bỏ nơi này?”. Tôi im lặng đứng lên nâng chiếc gàu, tay vác sào lên vai giục Ngân đi về. Tôi biết và cả Ngân cũng biết, nhiều người đã ra đi, chính tôi cũng tự bảo, một ngày nào đó cũng sẽ ra đi.

Hôm cả lớp đưa thầy chủ nhiệm đi dã ngoại phía núi Đá Bia, lúc ngồi trên gộp đá chồng bằng phẳng mỗi đứa đều giở những thứ mang theo bên mình, hai phần ba là sắn luộc nguyên củ nguyên vỏ. Phần còn lại là cá của bọn xóm Lò. Nhìn cả bọn xác xơ đến ứa nước mắt. Kẻ ở đồng như tôi, như Ngân, như Hoa, như Điền dáng nghiêng nghiêng kiểu say nắng, say cát. Kẻ ở biển như Đen, như Sòng, như Thu thì đôi tay to sụ với tấm lưng còng còng vì vùng biển bãi ngang, có nhiều vực sâu lẫn triền cao nên thân hình lòng khòng cứ phải khom người mà đẩy ghe, đưa thuyền lên bờ cát.

Ngân rủ tôi ra gộp đá xa, nhìn Ngân nhỏ nhắn trong chiếc áo vải tám trắng cổ trái tim, chiếc mũ tai bèo thịnh hành như một trào lưu thời ấy, tôi thấy Ngân thiệt đẹp. Đến tảng đá nhỏ gần bụi bàn chải, Ngân chỉ loài cây mọc trên đá có cánh lá mỏng manh xòe ra đón gió cùng chùm hoa bé xíu hé nụ vàng sẫm. Ngân bảo: “Hoa đá đó anh, lúc mưa về nó sẽ vươn lên thành bụi cho hoa đẹp rực”. Tôi lắc đầu bảo không phải, vì thừa biết loại cây cúc dại ấy mọc nhan nhản đầy các lối mòn phía núi Đá Bia lúc đi nhặt hạt ư, hái đát, trảy sim cho má ra chợ. Tôi từng hỏi bà và cũng từng đi tìm loài hoa đá nhưng không hề gặp. Còn giờ bên Ngân, tôi lại quay đi khi thấy mắt Ngân đã ngân ngấn nước.

Năm sau, cuối cấp hai, cả vùng cát phát động trồng rừng phòng hộ. Lúc ấy, vùng cát còn dày đặc kẽm gai, hố bom, bãi mìn, lâu lâu lại có tiếng nổ âm âm bùng bục trong lòng đất. Ngày công được tính điểm quy ra lúa, rộn rã tiếng kẻng gọi ra... bãi cát. Mọi nhà, mọi xóm nô nức vác xẻng bới hố trồng từng trảng dương non lấp dần cát trắng. Bộ đội rà mìn qua khu nguy hiểm để các tốp dân phía sau hì hụi đào hố bỏ cây dưới nắng chang chang thiêu đốt. Ngân đi bên tôi mặt ửng đỏ, sống mũi lấm tấm mồ hôi nhưng miệng vẫn cười cười. Những ngày ấy, chúng tôi được ăn cơm với thịt kho trứng, dù gạo bốc mùi ẩm mục và trứng đã ung thối nhưng ngon vô cùng. Ngân mang theo nước đậu rang pha đường chống say nắng, mà say nắng thì người nóng ran, đầu như búa bổ, không khéo phát khùng vác cuốc chạy lung tung dễ sa vào bãi mìn thì khốn. Nắng lắm, nắng tóe hoa cà hoa cải. Bóng nắng đổ xuống, người lom khom dõi nhìn bóng mình hắt trên cát mà muốn thu nhỏ để chui tọt vào. Rồi cũng chẳng hiểu sao, từng nhóm tách ra làm riêng, chỉ còn tôi và Ngân. Mặc nhiên tôi làm gấp đôi và Ngân săn sóc tôi cũng là chuyện bình thường. Bữa cơm đầu tiên của hai đứa mãi đến chiều xế bóng trong hố bom râm mát, Ngân mỉm cười đưa bi đông nước bảo tôi rửa mặt rồi ăn cơm. Tôi chợt nhớ cha và má ngày xưa thì Ngân cắt ngang những suy nghĩ bởi ánh mắt long lanh ẩn hiện một hạnh phúc bất chợt vừa đến, Ngân bảo sau này vùng cát có rừng trở lại, đất sẽ giữ người ở lại. Tôi nhìn đôi tay trần mang đầy vết cứa lẫn nhựa mủ cây đen sạm, nhìn gương mặt thanh thanh còn vương vài hạt cát mới chợt nhớ cả hai là dân vùng cát. Ừ. Có thể tôi sẽ ra đi nhưng cũng sẽ trở về nên im lặng và nhẹ nắm tay Ngân dù chưa có cảm giác rung động nhưng tôi cảm thấy dễ chịu. Ngân vẫn để yên và trong mùi oi oi của cát, của nhựa rễ cây, tôi nghe có mùi hương nhè nhẹ thoảng qua, tiếng Ngân dịu dàng: “Ngân gội tóc bằng nước nấu từ nụ hoa của loài bông đá, Ngân đã tìm ra nó, ở bên nó, dù ai đó có chấp nhận hay không”. Tôi cười khe khẽ, ngước nhìn áng mây trôi qua mang chút gió mát bất chợt đổ về.

Trưa hôm sau, chỗ tôi trồng gần khu vực của bọn thằng Nghĩa, lúc Ngân bảo đi đâu đó cả bọn nháy tôi sang với chúng. Từ phía hố bom nông chèn, Nghĩa chỉ lên mặt đường đá sỏi có quả đạn M.79 lộ ra vàng chóe dưới nắng. Nó dang tay ném đá nhưng không nổ, thằng khác ném vẫn không nổ, vòng xoay trái đạn không đủ tua để kim hỏa đập thì cả bọn đều biết vì sống giữa bom mìn. Điên máu, Nghĩa phóng lên mặt đường ném liên tiếp, tôi định gào lên ngăn nó thì Ngân chợt xuất hiện, kêu với: “Về đi anh, đến bữa...”. Tôi rùng mình chưa kịp hét, chưa kịp nhao lên thì đất đã rung chuyển, tiếng ì ầm của sóng dội vào lồng ngực, Nghĩa bật ngửa oằn oại trong đám khói đen kịt. Tôi lao đến Ngân lúc em từ từ quỵ xuống. Mảnh đạn đi qua người Ngân, bàn tay che lồng ngực phập phồng dần loang vết máu từ từ buông xuống, từng cánh hoa đá có màu vàng sẫm nhẹ rơi trên triền cát trắng.

Tôi đã rời vùng cát vào chiều đông gió cuốn, má lầm lũi vượt triền dốc lên đường cái quan tiễn tôi. Năm xưa, tóc má còn xanh, cũng vào đêm đông giá rét đưa cha vượt trảng vào núi rừng trùng điệp. Còn bây giờ, tóc má đã vương sợi bạc, bàn tay gầy khô. Má chỉ cho tôi gộp đá đen gần đường lộ, nơi ấy, trên mặt đá rong rêu, cây cúc dại điểm hoa vàng li ti, lao xao trong gió bấc lạnh tê tái. Má bảo, ngày trước ông ngoại không chịu cha con, nên má lén hẹn cha nơi này. Cha từng hái tặng má bó hoa bám trên mặt đá ấy và cho đến hôm nay, má có con, đặt tên con cho một loại cây luôn chịu đựng sự khắc nghiệt nhưng vẫn sống và chờ đợi... Nơi này, một bên là quê ngoại yên bình, và bên kia là vùng cát đã nuôi con khôn lớn có nhiều nỗi đau và sự chịu đựng.

Tôi đi và đã gặp một loài hoa đá, nó không mộc mạc giản dị như loài hoa vùng cát của Ngân. Nó có màu tím sang trọng cùng mùi hương thơm ngát, thường được chưng trang trọng nơi phòng khách hay trồng trong khuôn viên biệt thự. Loài hoa này không sống trên đá và không lúc nào thiếu bàn tay chăm sóc. Cũng như các cô gái khác không thể như Ngân và không phải hằng ngày đổ mồ hôi đánh đổi cuộc sống. Sân đời ở đây hoàn toàn khác, con tim luôn luôn co thắt vì những sai trái nhưng vẫn phải làm. Nó khác xa với Nghĩa cùng quả M.79 và trò chơi tuổi dại. Nó khác với Ngân trong tính hồn nhiên và chân chất như một loài hoa đá. Nó khác với má ở sự nhẫn nhục đợi chờ. Mọi việc làm luôn phải nghĩ thiệt hơn không phải như vác gàu sòng mà tính số ngàn với sao trời nhấp nháy. Nó cũng chẳng phải khi cúi đầu nhai sắn và đến lúc hỉ hả ăn cơm dưới trảng dương non để mơ ước ngày mai. Nó là thực dụng và hối hả, như bia bọt chiều nay và trưa mai đã đường hoàng ngồi phòng máy lạnh nhâm nhi rượu Tây. Nó không cần phải tính đến trăm năm khi mọi nhu cầu đang ồ ạt tràn ngập. 

Tôi về thăm má lần đầu, sau khi bà khăn gói lên phố thăm tôi đến chục lần rồi không lên nữa. Tôi lạc lối trên một vùng cát nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Rừng đã có, không phải Hoành Lâm xưa kia mà cả dải mênh mông màu xanh ngút ngàn. Má đã già, lưng còng đang vãi thóc cho bầy gà con chiêm chiếp dưới chân. Trong chiều chạng vạng, bên chiếc giếng đào trong vườn có người con gái đang kéo dây lấy nước trông thật giống Ngân. Má nói “Nga, em gái út của Ngân. Nó làm bên khu công nghiệp, đang ở nhờ nhà mình...”

Đêm. Tôi đi dạo cùng Nga. Dưới tán dương đan dày lỗ chỗ ánh trăng, mặt cát rì rào tiếng gió, thỉnh thoảng có cánh chim đêm vụt qua và có những ánh đèn xe máy quét sáng đầy vẻ tò mò. Nga khúc khích cười đi gần tôi hơn và lắng tai nghe tôi kể về Ngân, cả chuyện về loại cây từng sống trên đá. Nga cho tôi biết, vùng cát điệp trùng này đã được phân địa giới hành chính, trong ấy Đen đã làm chủ tịch xã phía Thượng, Hoàng mở đìa tôm và nuôi tôm giống ở phía Trung, còn Hoa lấy chồng làm nghề đánh bắt cá xa bờ ở dưới Hạ.

Chiều ngày sau, tôi cùng Nga, có cả Đen ra nghĩa trang nằm giữa mảng rừng dương êm ả. Nơi có ông tôi, cha tôi, chú tôi và những người thân trong làng. Có cả Ngân, cả Nghĩa, cả những kẻ vừa ra đi lúc tôi ở phố. Những ngôi mộ được bao bọc tường gạch kiên cố không còn vun cát xếp đá phòng cát trôi, cát lấp. Mộ cha tôi gần chỗ Ngân nằm được trồng nhiều luống cúc dại đơm bông rực vàng. Tôi biết, má trồng và gọi tên là loài hoa đá, kỷ niệm dành cho cả ba người. Tôi im lặng đưa mắt nhìn Nga. Tất cả đã qua rồi, dù hình ảnh Nga giống hệt Ngân ngày cũ. Không, khác hơn một chút, là Nga đang hí húi tách từng cánh hoa đá thả theo gió, không cần để lại chút gì trong tay. Tiếng Đen nghe xa xăm lắm “Về quê đi mày... bao nhiêu năm rồi...”. Nga lại tách từng cánh hoa nhẩn nha thả trôi, màu vàng dần lấp đầy bia mộ của Ngân lúc bóng chiều đã tắt. Hình như thoảng trong gió tiếng Ngân nói, không, chỉ có Nga bên cạnh, lúc Đen bỏ đi tự khi nào. “Về anh, mai đi sớm...”, Nga khẽ nhắc.

Từ khóa:

Ý kiến của bạn