1. Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế thị trường (KTTT) trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội...; không một ai phủ nhận sự tồn tại khách quan của KTTT trong nhiều chế độ xã hội khác nhau; không một ai còn cho rằng KTTT là sản phẩm riêng có của CNTB... Đảng ta khẳng định: “sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”(1), “Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”(2).
Hệ thống siêu thị đang ngày càng thu hút người tiêu dùng Phú Yên – Ảnh: N.QUANG |
Phát triển KTTT có vai trò rất quan trọng. Đối với nước ta muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì không còn con đường nào khác là phải phát triển KTTT. KTTT khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh PCLĐXH, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm... Vì vậy, phát triển KTTT được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất. Không thể có nền KTTT ở nước này lại là bản sao của KTTT ở nước khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác, phải kể đến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế. Ở nước ta những định hướng XHCN của nền KTTT là: Thứ nhất, phát triển nền KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thứ hai, phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Thứ ba, xây dựng một nền KTTT hòa nhập vào nền KTTT khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú đa phương, đa dạng.v.v.
Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN được xác định là: tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỉ lệ tiết kiệm, tăng tích lũy và đầu tư hiện đại hóa, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển.
Theo mục tiêu đó, có thể xác định những đặc trưng bản chất của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta: Một là, KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp, kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hai là, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác phải trở thành nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận động theo định hướng chung và theo khung khổ pháp luật của nhà nước XHCN. Ba là, nền KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Bốn là, nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế “mở” cả với bên trong và với bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, hoạt động của cơ chế thị trường (CCTT) không chỉ chịu sự tác động của các quy luật KTTT nói chung, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo. Do vậy, mô hình CCTT có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong nền kinh tế định hướng XHCN có những đặc điểm khác nhau cơ bản:
Thứ nhất, về chế độ sở hữu: CCTT trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ tư hữu và tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. CCTT trong nền KTTT theo định hướng XHCN lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ vai trò là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát triển KTTT nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển của kinh tế hàng hóa nhỏ và TBCN. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lời hoặc ít lãi.
Thứ hai, về tính giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước: trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, về cơ chế vận hành: cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Thứ tư, về mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội: trong sự phát triển của KTTT tư bản chủ nghĩa, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Song, vấn đề đó không bao giờ và không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ tư bản. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội của các Chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ tư bản chủ nghĩa, chỉ được xem là phương tiện để duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển nền KTTT mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giữa giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Thứ năm, về phân phối thu nhập. Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đặc trưng xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN thể hiện: Một là, xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được như: tốc độ tăng GDP/người, các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm, về xóa đói giảm nghèo, về văn hóa xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh... Hai là, nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách đảm bảo xã hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật...).
Tình hình đó đặt ra cho KTTT định hướng XHCN phải kết hợp hài hòa 3 vấn đề sau đây: Một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của KTTT có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Ba là, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Tuy vậy, nền KTTT ở nước ta hiện nay vẫn còn mang nặng những đặc điểm: Một là, KTTT trong thời kỳ quá độ là nền KTTT quá độ. Tính quá độ thể hiện: trong nền kinh tế bao gồm nhiều loại hình sản xuất hàng hóa đan xen nhau: sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa, sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và sản xuất hàng hóa nhỏ... (nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia sản xuất hàng hóa). Mỗi kiểu sản xuất hàng hóa có những nét đặc thù về bản chất kinh tế - xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là những bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trường xã hội thống nhất với các quan hệ cung - cầu, giá cả chung, một đồng tiền chung... Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nhưng các kiểu sản xuất hàng hóa này không còn giữ nguyên bản chất, vì nó mang tính chất quá độ. Nhân tố kinh tế và quan hệ kinh tế trong sản xuất hàng hóa của mỗi thành phần kinh tế đều đã xuất hiện những cái mới. Ví dụ: trong sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa đã có những nhân tố kinh tế của kinh tế nhà nước như điện, nước, cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc... và đã có những quan hệ kinh tế với các thành phần kinh tế khác, chịu sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa...
Trong nền KTTT quá độ, sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, định hướng đối với các kiểu sản xuất hàng hóa khác. Hai là, KTTT còn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng mặt hàng và chủng loại hàng hóa nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa còn cao, chất lượng hàng hóa còn thấp, quy mô và dung lượng thị trường còn hạn hẹp; sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn yếu; đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp, do đó sức mua còn hạn chế; nhiều loại thị trường còn ở trình độ sơ khai hoặc mới đang trong quá trình hình thành như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động...Trình độ phát triển thấp của sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỉ trọng lớn, từ sự kìm hãm nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội... Ba là, nền KTTT phát triển theo hướng hòa nhập vào thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đạt trình độ xã hội hóa cao, dẫn đến quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển KTTT không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước, mà còn phải tính đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền KTTT của mỗi quốc gia muốn phát triển thuận lợi không thể không gắn với thị trường thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú đa dạng, mà bất cứ một nước nào dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hóa. Vì vậy, mỗi nước phải tùy theo lợi thế của mình, lựa chọn những mặt hàng sản xuất có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất hàng hóa ở nước ta chỉ có thể phát triển mạnh mẽ nếu thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng những tiến bộ công nghệ, kỹ thuật hiện đại của thế giới để khai thác những tiềm năng còn rất lớn trong nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mới hướng mạnh và xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Bốn là, phát triển KTTT gắn với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển KTTT gắn với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hóa xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền KTTT mang bản sắc văn hóa Việt Nam phải thực hiện có hiệu quả sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận việc thương mại hóa mọi hoạt động đời sống xã hội, mà đề cao những chuẩn mực giá trị văn hóa và đạo đức, đồng thời đấu tranh xóa bỏ những tập tục và lối sống cổ hủ, lạc hậu. Kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với sự giữ gìn những yếu tố tinh túy của văn hóa dân tộc, xây dựng những nhân tố văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm các yêu cầu sau: tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với những tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu “mọi lợi ích đều vì dân”, giải phóng con người, con người phát triển toàn diện. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu và tư liệu sản xuất chủ yếu. Thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân. Kinh tế tư bản tư nhân, cá thể phát triển theo sự quản lý của Nhà nước. Tính năng động của cơ chế thị trường phải gắn với sự quản lý của Nhà nước. Đa dạng các hình thức phân phối, phân phối theo lao động ngày càng chi phối. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh tổng thể quốc gia. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo nguyên tắc ngày càng tăng nhanh sức sống nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh.
2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế hoạt động một cách khách quan, tác động vào những quan hệ kinh tế và qua đó đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến lợi ích của mỗi cá nhân, nhóm, tầng lớp, giai cấp xã hội. Do vậy, trên cơ sở đảm bảo lợi ích giai cấp và mục đích phát triển của nền kinh tế, các giai cấp cầm quyền trong xã hội đều cần thiết phát huy những mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của các quy luật kinh tế (đến một mức nào đó do lợi ích giai cấp, nhóm xã hội quy định) bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Đó chính là thể chế kinh tế.
Gia công hàng may mặc xuất khẩu tại một doanh nghiệp ở Phú Yên – Ảnh: V.NGUYÊN
Như vậy, thể chế kinh tế hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống pháp luật, chính sách do Nhà nước ban hành dựa trên các quy luật vận động khách quan của nền kinh tế để điều tiết, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của chúng. Theo ý nghĩa đó, thể chế kinh tế là những tác động chủ quan, định hướng của con người vào sự vận động và phát triển của nền kinh tế.
Ngày nay, kinh tế thị trường đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, do mục đích và điều kiện của nền sản xuất ở mỗi nước khác nhau, nên thể chế kinh tế thị trường ở các nước không hoàn toàn giống nhau.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX của Đảng (2001), Đảng đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đề ra nhiệm vụ xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội X đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X ra Nghị quyết số 21-NQ/TWvề “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là cụ thể hóa quan điểm và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X.
Sau khi đánh giá tình hình chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hơn 20 năm qua, Nghị quyết đã xác định mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
2.1. Mục tiêu
Nghị quyết xác định mục tiêu chung của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nhằm:
- Thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Mục tiêu cụ thể đến năm 2010 là:
- Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi.
- Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
- Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
- Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn từ năm 2010 - 2020, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế, thực hiện về cơ bản mục tiêu chung nêu trên.
2.2. Quan điểm
Để thực hiện các mục tiêu trên, đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết nêu 5 quan điểm cần quán triệt trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm tới là:
Quan điểm thứ nhất: Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Thực hiện quan điểm này nhằm khắc phục tư tưởng chủ quan, duy ý chí, vi phạm sự vận động của quy luật khách quan, cũng như khắc phục chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc, bắt chước nước ngoài, không tính tới đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta; chạy theo các chỉ tiêu kinh tế thuần túy, coi nhẹ định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng phát triển của nền kinh tế nước ta.
Quan điểm thứ hai: Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế.
Theo quan điểm này cần bảo đảm đồng bộ giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.
Quan điểm thứ ba: Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Quan điểm này xuất phát từ thực tế của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta là công việc mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm. Nhưng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, không cho phép chúng ta lừng chừng, trù trừ khi đã có nhận thức đúng đắn quá trình phát triển của đất nước.
Quan điểm thứ tư: Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Quan điểm thứ năm: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân thực hiện và vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải huy động được sự tham gia của toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta.
(Còn nữa)
PGS.TS VŨ VĂN PHÚC
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phú Yên